Cập nhật thông tin chi tiết về Cảm Nhận Khổ Thơ 6 Trong Bài Thơ Việt Bắc mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cảm nhận khổ thơ 6 trong bài thơ Việt Bắc
Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:
” Ta về mình có nhớ ta
…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm ” Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.
Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:
” Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của ” chàng- nàng”, ” anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô ” mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh ” những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.
Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.
Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:
” Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với ” sương sa, tuyết lở”:
” Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”
nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: ” rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: ” nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.
Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:
“Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: ” chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:
” Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Động từ ” đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải ” chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.
Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Động từ ” rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ ” hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.
Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. ” Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.
Cảm Nhận Khổ 6 Bài Thơ “Việt Bắc”
BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU LỚP 12 Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”
“ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.
Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.
Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”
Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vủa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như là nhãn tụe của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.
“ Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.
Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.
_TN_vfo.vnvfo.vn
BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “ VIỆT BẮC” Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:
“ Ta về mình có nhớ ta
…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.
Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:
“ Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của “ chàng- nàng”, “ anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô “ mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh “ những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.
Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.
Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:
“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với “ sương sa, tuyết lở”:
“ Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”
nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: “ rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: “ nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.
Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:
“Mùa xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: “ chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:
“ Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Động từ “ đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải “ chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.
Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Động từ “ rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ “ hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.
Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. “ Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.
Phân Tích Khổ Thơ Thứ 6 Trong Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam.
Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:
Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Đoạn thơ này được coi là một trong những đoạn hay nhất bởi bút pháp nghệ thuật của Tố Hữu đã đạt tới trình độ cổ điển. Căn cứ vào nội dung và vị trí của đoạn thơ trong chuỗi lời đối đáp giữa người đi và kẻ ở, ta hiểu đây chính là lời của người ra đưa tiễn các cán bộ, chiến sĩ về xuôi.
Ở câu thơ thứ hai: Ta về ta nhớ những hoa cùng người, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại.
Trong bốn câu lục bát tiếp theo, tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng. Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Bút pháp miêu tả nhất quán : câu lục được dành để tả cảnh, còn câu bát được dành để vẽ người. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật và con người Việt Bắc hòa quyện với nhau, tạo thành một chính thể thống nhất.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Màu hoa chuối đỏ tươi nổi bật trên sắc xanh của rừng núi. Nhà thơ đã khéo léo dùng sự tương phản giữa màu đỏ và màu xanh để làm sáng lên cảnh rừng già, gợi lên cảm giác ấm áp. Những bông hoa chuối như những ngọn lửa làm giảm bớt vẻ u tịch của cảnh vật. Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh con người tuy bé nhỏ nhưng vẫn sinh động, không bị chìm đi. Ánh nắng chiếu lấp lánh trên con dao người đi rừng giắt ngang lưng khiến con người trở thành điểm sáng di động và là trung tâm của bức tranh. Thiên nhiên không che lấp mà thực sự làm nền cho vẻ đẹp của con người lao động.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Xuân về, sắc trắng tinh khôi của hoa mơ làm choáng ngợp hồn người. Âm điệu của hai chữ trắng rừng thể hiện được cảm giác ngỡ ngàng, hạnh phúc của nhân vật trữ tình trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của đất trời Việt Bắc. Giữa một thiên nhiên tuyệt vời như thế, dáng vẻ con người dường như cũng khoan thai, thong thả hơn. Chuốt vốn là động từ nhưng khi được đặt trong câu thơ nó lại kiêm luôn chức năng của tính từ đặc tả sự óng chuốt của từng sợi giang dùng để đan nón. Con người ở đây chính là chủ nhân của mùa xuân, đang tô điểm cho sắc xuân của đất trời thêm lộng lẫy. Bức tranh thứ bạ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình.
Có thể nói đây là một trong những câu thơ hay nhất tả cảnh mùa hè trong thơ ca Việt Nam. Bởi nó xôn xao tiếng nói của cả màu sắc lẫn âm thanh. Tiếng ve ngân vang như tiếng đàn trong rừng phách nở hoa vàng thắm. Âm thanh vang rền của tiếng ve làm cho màu vàng của rừng phách như rung lên thành tiếng và ngược lại, màu vàng của rừng phách dường như cũng “nhuộm vàng” cả tiếng ve. Chữ kêu, chữ đổ thể hiện thật tài tình không khí rạo rực và màu sắc nồng nàn rất đặc trưng của mùa hạ. Hình ảnh cô gái hái măng một mình khơi dậy trong lòng người ra đi một nỗi nhớ ngọt ngào, sâu lắng.
Bức tranh mùa thu êm dịu, trong sáng được vẽ nên bằng những đường nét mảnh mai, tinh tế, thắm đượm cảm xúc trữ tình, gợi ra cả một trường liên tưởng mênh mông cho người đọc:
Rừng thu trăng rọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.
Anh trăng thu mát dịu tỏa chiếu khắp núi rừng, tạo nên khung cảnh thanh bình, yên ả. Tiếng hát ân tình thủy chung của một cô gái nào đó cất lên nghe thật tha thiết, cứ ngân nga vang vọng mãi trong tình yêu và nỗi nhớ của người đi. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu, muôn sắc, trong sự thay đổi của các mùa. Thiên nhiên luôn gắn liền với bóng dáng con người cần lao. Cuộc sống kháng chiến sản xuất và đánh giặc gian khổ, hiểm nguy song không thiếu những nét thanh bình, êm ả.
Đoạn trích trên là bức tranh vừa hiện thực vừa trữ tình về chiến khu Việt Bắc. Tình cảm chân thật, thắm thiết của nhà thơ Tố Hữu đối với thiên nhiên và con người nơi đây chính là động lực thúc đẩy thi hứng và sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ.
Cảm Nhận Khổ 3 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu
BÀI VĂN SỐ 1 CẢM NHẬN KHỔ 3 ĐOẠN TRÍCH “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU Xuân Diệu từng tâm sự khi đọc thơ Tố Hữu: “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Cuộc đời Tố Hữu là cuộc đời dân tộc, lẽ sống Tố Hữu là lẽ sống của đồng bào. Câu thơ Tố Hữu cũng thế, câu thơ của những cuộc kháng chiến:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.
Những câu thơ đầu là khúc dạo đầu của bản trường ca, tái hiện lại những ngày tháng gian khổ khó khăn mà thấm đượm ân tình, ân nghĩa:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Đoạn thơ là một loạt những câu hỏi được điệp lại: “Mình đi, có nhớ…”, “mình về, có nhớ…” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng, ân tình. Cách xưng hô “mình – ta” cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc gợi nhớ về lối đối đáp quen thuộc trong những câu hát giao duyên, những điệu hát huê tình của chàng trai và cô gái, giữa mận và đào, của mai và trúc. Mượn tình đôi lứa cá nhân để biểu đạt một tình cảm lớn hơn: tình yêu đồng bào khiến câu thơ từ chính trị khô khan trở nên rất đỗi trữ tình. Trong những câu thơ sau, tác giả đã vận dụng sáng tạo cách ăn nói, lối diễn đạt dân gian: “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù” để tái hiện hình ảnh của thiên nhiên nơi rừng núi. Nếu thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên thơ mộng, lãng mạn trong cái nhìn của Quang Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” thì thiên nhiên đối với những con người nơi đầu nguồn chớp bể thực sự không dễ dàng: “mưa nguồn suối lũ” tưởng như có thể đánh bại và làm con người biến mất bất cứ lúc nào. Sau này, hình ảnh mưa ấy cũng vào trong trang thơ của Phạm Tiến Duật, trên con đường tiến tới lí tưởng: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Hơn nữa, lại thêm “những mây cùng mù”- trên mây, dưới mù gợi lên cái gì hoang vu, u lạnh của một vùng thâm sơn cùng cốc nào đó. Biện pháp đối lập: “Miếng cơm chấm muối” – “mối thù nặng vai” không chỉ nói lên những gian khổ khó khăn mà con người ở đây phải gánh chịu mà qua đó còn khẳng định lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của con người. Điều kiện càng khó khăn, gian khổ càng nhắc nhở con người về mối thù không còn vô hình mà đã hữu hình, có sức nặng và cảm nhận được.
Tiếp nối mạch cảm xúc ấy nhưng những câu thơ lại chở chút luyến lưu, xao xuyến và cả những băn khoăn:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Một loạt những cụm từ “Trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, “hắt hiu lau xám” như những nỗi băn khoăn về sự thay đổi, phai nhạt của lòng người theo thời gian để rồi mọi thứ cũng héo úa, tàn lụi dần. Nhưng kết thúc lại là hình ảnh tươi rói, ấm áp bao nhiêu: “đậm đà lòng son” nổi lên giữa sự mờ nhạt xung quanh. Câu thơ kết lại chắc nịch về mối tình ân nghĩa, thủy chung không thể đổi thay.
Cuối cùng là lời trao gửi của người ở lại để nhắc nhớ về hành trình kháng chiến của toàn dân tộc với những chặng đường đáng nhớ:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Trong câu hỏi cuối: có đến ba từ “mình”. “Mình” thứ nhất và thứ hai để chỉ người ra đi. Vậy còn từ “Mình” thứ ba? Vẫn là người ra đi? Hay đó là người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. Mình và ta giờ đã không còn phân biệt được nữa rồi. Mình là ta, ta và mình hòa quyện trong nhau, cùng sống, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu để cùng tận hưởng niềm vui chiến thắng. Những tình cảm đó, sẽ là “ta” đi theo mình đến mọi chặng đường, dù khi ấy “mình” có đi đâu chăng nữa.
Đoạn thơ gợi nhắc về những tháng năm kháng chiến, những ân tình cách mạng mà không hề khô khan, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người đọc bởi thể thơ lục bát quen thuộc, kết cấu của những câu hát yêu thương tình nghĩa với giọng điệu thiết tha, da diết. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc mà có sức gợi đến bất ngờ. Chính những năm tháng ấy, những con người ấy là điểm tựa, là động lực để làm nên những chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nếu nói văn học chính là “tấm gương lớn di chuyển trên đường cái”, là “phong vũ biểu của thời đại” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là tác phẩm như thế. Nó đã làm trọn trách nhiệm của mình, của văn học: phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu.
Xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên thay cho lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”
-Bỉ Ngạn-vfo.vn
BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CẢM NHẬN ĐOẠN 3 BÀI THƠ VIỆT BẮC CỦA TỐ HỮU Đặng Thai Mai đã từng khẳng định: “Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ ca”. Để rồi đọc những dòng thơ ấy, Hoài Thanh cũng thốt lên: “Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Đến với đoạn 3 của bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu ta sẽ cảm nhận được sâu sắc về cuộc sống kháng chiến
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Việt Bắc là tác phẩm trường thiên,dài 150 dòng,được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hổ và cán bộ từ giã Thủ đô gió ngàn để về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình .Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi – người miền ngược và người đi kháng chiến.
Những câu hỏi tu từ là sự nhắc nhớ đầy ân tình, mang dáng dấp những câu đối đáp quen thuộc của ca dao giao duyên, của những câu hát huê tình đượm yêu thương chàng trai cô gái trao nhau thuở trước. Tố Hữu mượn câu hát tình yêu đôi lứa ngày xưa để nói đến một tình cảm rộng lớn hơn: tình đồng bào quân dân, mượn cái riêng để nói đến một tình cảm chung thiêng liêng, cao đẹp. Bởi vậy, những câu thơ “Việt Bắc” dẫu có tinh thần chính trị mà không hề khô khan, “chính trị mà rất đỗi trữ tình” như cách nói của nhà thơ Xuân Diệu. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ” đã gợi liên tưởng nhớ về những quán ngữ dân gian như “mưa rừng gió bể”, “chớp bể mưa nguồn” khi nói đến một thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt với nhiều thách thức. Hình ảnh “những mây cùng mù” gợi ra một không gian xa xôi, mịt mờ rất riêng của một vùng thâm sơn cùng cốc. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai” đã khắc họa chân thực hoàn cảnh kháng chiến và nhiệm vụ kháng chiến.
Biện pháp hoán dụ “rừng núi nhớ ai” được sử dụng: “rừng núi” chính là hình ảnh người ở lại để thể hiện nỗi nhớ da diết mà sức vóc của nó có thể sánh ngang tầm với núi rừng đại ngàn. Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức “trám bùi để rụng”, “măng mai để già”. “Trám bùi” và “măng mai” là những đặc sản Việt Bắc xuất hiện trong bữa ăn của bộ đội, của cán bộ kháng chiến “ Trám bùi để rụng măng mai để già”. Hình ảnh “hắt hiu lau xám” gợi về miền đất hoang sơ, nghèo nàn. Nhưng người Việt bắc chỉ nghèo về vật chất chứ không nghèo về tình cảm. Cụm từ “đậm đà lòng son” đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắc với cách mạng, hết lòng về kháng chiến của người dân nơi đây. Họ chịu đựng khó khăn, gian khổ để cưu mang giúp đỡ cán bộ cách mạng. Trong câu thơ “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” tác giả đã sử dụng phép tiểu đối để nhấn mạnh đất Việt bắc tuy có nghèo nhưng con người Việt Bắc luôn giàu nghĩa tình.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: cán bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không?
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Một loạt các mốc thời gian và địa danh được liệt kê: “Kháng Nhật”, “thuở còn Việt Minh”, “Tân Trào, Hồng Thái” như đang tổng kết lại hành trình mà dân tộc đã đi qua. Chúng không chỉ giản đơn là những địa danh vô cảm trên bàn đổ địa lí mà mỗi tên gọi đều là những kỉ niệm, những gian khổ, những chiến thắng mà quân và dân ta đã cùng bên nhau để đón nhận. Cách mạng hào hùng, khó phai thời kháng Nhật, khi hoạt động Việt Minh, kỉ niệm tại địa danh lịch sử Tân Trào hay người anh hùng Cách mạng Hồng Thái. Đại từ xưng hô “mình” nhà thơ Tố Hữu sử dụng xuyên suốt đoạn thơ hay cũng là xuyên suốt toàn bài đã thể hiện sự gắn bó, tình cảm bền chặt, thắm thiết giữa kẻ ở người đi. Cách xưng hô đó còn gợi người đọc nghĩ về những lời tâm tình thủ thỉ chân thành giữa quân và dân, giữa người cán bộ cách mạng với đồng bào Việt Bắc nghĩa tình.
Thơ là hiện thực, thơ là cuộc đời và thơ còn là thơ nữa. Những dòng thơ của Tố Hữu đã cho người đọc biết được rất nhiều những khó khăn gian khổ của đồng bào Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc.
-Hiên Bùi-vfo.vn
BÀI VIẾT SỐ 3 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN ĐOẠN 3 BÀI THƠ VIỆT BẮC NGẮN GỌN Trong cuốn “Nhà văn nói về tác phẩm”, nói về tác phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu từng chia sẻ: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”. Có lẽ chính bởi điều đó mà “Việt Bắc” được coi như “đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”. Đoạn thơ thứ ba trong tác phẩm mang nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc, lưu lại nhiều dấu ấn trong trái tim, cảm xúc người đọc.
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu xuất bản năm 1946 có viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Còn trong lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 có đoạn: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích…Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính…Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. “Việt Bắc” được sáng tác năm 1954 là một bài thơ tiêu biểu trên chặng đường thơ Tố Hữu. Đoạn thơ thứ ba trong bài với nhiều tâm tư, tình cảm nhà thơ Tố Hữu gửi vào đã thực sự làm lay động nhiều tâm hồn, trái tim bạn đọc khiến họ thêm yêu tác phẩm và trân trọng hồn thơ Tố Hữu.
Tiếp nối tám câu thơ đầu nói về tâm trạng lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay giữa người đi kẻ ở là những dòng thơ tiếp theo trong khổ thơ thứ ba với ý nghĩa là những lời nhắn nhủ dưới hình thức là một loạt các câu hỏi tu từ:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù?
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Ý thơ Tố Hữu ở đây gợi nhắc ta nghĩ đến lời thơ Quang Dũng trong “Tràng Giang”: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tố Hữu tả thực để từ đó khắc họa thiên nhiên dữ dội, sự vất vả gian lao của con người còn Quang Dũng lại lựa chọn cách nói sự lãng mạn để từ đó thể hiện cái đẹp. Dẫu có những cách thể hiện khác nhau nhưng cả hai nhà thơ đều khắc họa thành công và cảm động cái gian khó, nhọc nhằn của người Cách mạng ở buổi chiều kháng chiến. Nhân vật trữ tình nhớ về thiên nhiên, nhớ đến khung cảnh núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian lao với “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”, “trám bùi”, “măng mai”. Bên cạnh đó, trong tâm trí nhân vật trữ tình còn nhắc nhớ về những ân tình đậm đà trong khó khăn gian khổ, nhớ đến quãng thời gian hoạt động.
Những tình cảm nhớ thương da diết, sự trân trọng nồng nàn người cán bộ Cách mạng hay cũng chính là nhà thơ Tố Hữu dành cho đồng bào Việt Bắc thân thương đã từng một thời gắn bó, sẻ chia gian khổ đã được nhà thơ thể hiện rất khéo léo và tinh tế trong từng câu thơ, hình ảnh của đoạn thơ thứ ba của tác phẩm “Việt Bắc”.
Bạn đang xem bài viết Cảm Nhận Khổ Thơ 6 Trong Bài Thơ Việt Bắc trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!