Xem Nhiều 3/2023 #️ Đề Xuất 10/2021 # Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu # Top Like # Top 9 Trend | Anhngucongdong.com

Xem Nhiều 3/2023 # Đề Xuất 10/2021 # Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu # Top Like # Top 9 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Đề Xuất 10/2021 # Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu # Top Like mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Xem 99

Cập nhật nội dung chi tiết về Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu mới nhất ngày 02/10/2021 trên website chúng tôi Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 99 lượt xem.

Ngày xửa ngày xưa, có một anh tiều phu nghèo khổ, cha mẹ anh bệnh nặng chẳng may mất sớm, chỉ để lại cho anh duy nhất một chiếc rìu sắt. Hằng ngày, anh tiều phu phải lên núi đốn củi rồi đem củi bán lấy tiền kiếm sống qua ngày.

Một hôm, như thường ngày anh tiều phu lại vác rìu lên núi để đốn củi. Trong lúc đang chặt củi ở cạnh bờ suối, thì chẳng may chiếc rìu của anh bị gãy cán, lưỡi rìu bị văng xuống dưới dòng suối. Dòng suối nước chảy cuồn cuộn, nếu ai lỡ trượt chân rơi xuống suối thì có thể bị nước cuốn trôi khó lòng bơi được vào bờ, do đó anh tiều phu chỉ biết ngồi nhìn lưỡi rìu chìm sâu xuống đáy nước rồi than khóc tỉ tê, đến cỏ cây cũng mũi lòng:

Bỗng có một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ xuất hiện trước mặt anh chàng tiều phu, ông lão bước đến nhìn chàng tiều phu và hỏi:

– Tại sao con lại ngồi khóc ở đây?

Chàng tiều phu gạt nước mắt, nhìn ông lão đáp:

– Thưa ông, bố mẹ con chẳng may mất sớm, con phải sống mồ côi từ nhỏ. Gia cảnh nhà con rất nghèo, gia tài duy nhất của con là chiếc rìu sắt, đó cũng là kỉ vật mà bố mẹ con trước lúc qua đời để lại. Hàng ngày con nhờ có chiếc rìu lên núi đốn củi, kiếm sống qua ngày. Nhưng vừa nãy trong lúc đốn củi, chẳng may con làm lưỡi rìu rơi xuống suối mất rồi… từ nay con không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Con đau buồn quá thưa ông!

Ông lão nghe xong liền cười và nói:

– Ta tưởng chuyện gì lớn, con đừng khóc nữa, ta sẽ giúp con lấy lưỡi rìu lên.

Vừa dứt lời, ông lão liền lao mình xuống dòng suối. Được một lúc, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc chói loáng và hỏi anh tiều phu nghèo:

– Đây có phải là lưỡi rìu của con hay không?

Chàng tiều phu liền đáp:

– Dạ không thưa ông! Đây không phải lưỡi rìu của con.

Ông lão cười rồi lại lặn xuống dòng suối đang chảy xiết. Một lát sau, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, lần này trên tay ông cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng chói lấp lánh. Ông lão hỏi chàng tiều phu:

– Lưỡi rìu vàng này có phải của con không?

Anh chàng tiều phu nhìn ông lão, anh lại lắc đầu thật thà trả lời:

– Dạ lưỡi rìu này cũng không phải là của con. Lưỡi rìu của con bằng sắt ông ạ.

Nghe vậy, ông lão lại tiếp tục lặn sâu xuống dòng suối đang cuồn cuộn. Lần này, khi ngoi lên khỏi mặt nước ông đưa lên một lưỡi rìu bằng sắt, ông lão lại hỏi:

– Vậy đây có phải lưỡi rìu mà con đánh rơi hay không?

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình, anh chàng tiều phu liền reo lên mừng rỡ:

– Ôi, đây đúng là lưỡi rìu của con rồi. Lưỡi rìu này là cả sinh mạng của con, con vô cùng đội ơn ông đã tìm lại nó cho con, con thật không biết lấy gì để đền ơn ông.

Ông lão bỗng chốc hiện nguyên hình là một ông Bụt. Ông Bụt tươi cười, giọng rềnh vang nói:

– Con đúng là một người thật thà trung thực, không hề tham lam vàng bạc và lợi lộc trước mắt. Để khen thưởng cho con. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này, con hãy nhận lấy.

Anh chàng tiều phu vui mừng cúi đầu cảm tạ, hai tay đỡ lấy hai lưỡi rìu.

Ông Bụt cười vui, vuốt bộ râu trắng muốt, rồi hoá phép biến mất.

Tổng hợp và biên soạn: Thiên Hương

Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu

Ngày xửa ngày xưa, có một anh tiều phu nghèo khổ, cha mẹ anh bệnh nặng chẳng may mất sớm, chỉ để lại cho anh duy nhất một chiếc rìu sắt. Hằng ngày, anh tiều phu phải lên núi đốn củi rồi đem củi bán lấy tiền kiếm sống qua ngày.

Một hôm, như thường ngày anh tiều phu lại vác rìu lên núi để đốn củi. Trong lúc đang chặt củi ở cạnh bờ suối, thì chẳng may chiếc rìu của anh bị gãy cán, lưỡi rìu bị văng xuống dưới dòng suối. Dòng suối nước chảy cuồn cuộn, nếu ai lỡ trượt chân rơi xuống suối thì có thể bị nước cuốn trôi khó lòng bơi được vào bờ, do đó anh tiều phu chỉ biết ngồi nhìn lưỡi rìu chìm sâu xuống đáy nước rồi than khóc tỉ tê, đến cỏ cây cũng mũi lòng:

Bỗng có một ông lão râu tóc bạc phơ, đôi mắt hiền từ xuất hiện trước mặt anh chàng tiều phu, ông lão bước đến nhìn chàng tiều phu và hỏi:

– Tại sao con lại ngồi khóc ở đây?

Chàng tiều phu gạt nước mắt, nhìn ông lão đáp:

– Thưa ông, bố mẹ con chẳng may mất sớm, con phải sống mồ côi từ nhỏ. Gia cảnh nhà con rất nghèo, gia tài duy nhất của con là chiếc rìu sắt, đó cũng là kỉ vật mà bố mẹ con trước lúc qua đời để lại. Hàng ngày con nhờ có chiếc rìu lên núi đốn củi, kiếm sống qua ngày. Nhưng vừa nãy trong lúc đốn củi, chẳng may con làm lưỡi rìu rơi xuống suối mất rồi… từ nay con không biết lấy gì để kiếm sống qua ngày nữa. Con đau buồn quá thưa ông!

Ông lão nghe xong liền cười và nói:

– Ta tưởng chuyện gì lớn, con đừng khóc nữa, ta sẽ giúp con lấy lưỡi rìu lên.

Vừa dứt lời, ông lão liền lao mình xuống dòng suối. Được một lúc, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, tay cầm một lưỡi rìu bằng bạc chói loáng và hỏi anh tiều phu nghèo:

– Đây có phải là lưỡi rìu của con hay không?

Chàng tiều phu liền đáp:

– Dạ không thưa ông! Đây không phải lưỡi rìu của con.

Ông lão cười rồi lại lặn xuống dòng suối đang chảy xiết. Một lát sau, ông lão ngoi lên khỏi mặt nước, lần này trên tay ông cầm một chiếc rìu bằng vàng sáng chói lấp lánh. Ông lão hỏi chàng tiều phu:

– Lưỡi rìu vàng này có phải của con không?

Anh chàng tiều phu nhìn ông lão, anh lại lắc đầu thật thà trả lời:

– Dạ lưỡi rìu này cũng không phải là của con. Lưỡi rìu của con bằng sắt ông ạ.

Nghe vậy, ông lão lại tiếp tục lặn sâu xuống dòng suối đang cuồn cuộn. Lần này, khi ngoi lên khỏi mặt nước ông đưa lên một lưỡi rìu bằng sắt, ông lão lại hỏi:

– Vậy đây có phải lưỡi rìu mà con đánh rơi hay không?

Thấy đúng là lưỡi rìu của mình, anh chàng tiều phu liền reo lên mừng rỡ:

– Ôi, đây đúng là lưỡi rìu của con rồi. Lưỡi rìu này là cả sinh mạng của con, con vô cùng đội ơn ông đã tìm lại nó cho con, con thật không biết lấy gì để đền ơn ông.

Ông lão bỗng chốc hiện nguyên hình là một ông Bụt. Ông Bụt tươi cười, giọng rềnh vang nói:

– Con đúng là một người thật thà trung thực, không hề tham lam vàng bạc và lợi lộc trước mắt. Để khen thưởng cho con. Nay ta tặng thêm cho con hai lưỡi rìu bằng vàng và bạc này, con hãy nhận lấy.

Anh chàng tiều phu vui mừng cúi đầu cảm tạ, hai tay đỡ lấy hai lưỡi rìu.

Ông Bụt cười vui, vuốt bộ râu trắng muốt, rồi hoá phép biến mất.

Tổng hợp và biên soạn: Thiên Hương

Đề Xuất 10/2021 # Chùm Thơ Đi Mùa Hè Xanh # Top Like

Xem 99

Cập nhật nội dung chi tiết về Chùm Thơ Đi Mùa Hè Xanh mới nhất ngày 02/10/2021 trên website chúng tôi Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 99 lượt xem.

Đây là bài thơ đầu tiên trong chuỗi 5 bài tôi viết vào đợt tham gia chiến dịch tình nguyện mùa hè xanh. Lần ấy chúng tôi về đóng quân ở xã Hiệp Phước huyện Nhà Bè, dù không cách xa thành phố bao nhiêu nhưng có về mới thực sự thấy cảnh nghèo khổ của vùng quê này.

Tuổi xanh xanh với hè xanh

Nhà Bè đang đón đến nhanh lên nào

Chẳng về quê nữa có sao

Nơi đây sum họp, vui nào vui hơn

Góp tay giúp đỡ bà con

Đắp xong đường mới ta còn trồng cây

Nào anh em, hãy đến đây!

A…B… tiếng đọc từ thầy áo xanh

Xoá mù hoàn tất thật nhanh

Mọi người biết đọc, viết rành là vui

Các em nhỏ đã đến rồi

Nào cùng học tập hát hò vui chơi.

Thanh niên xin đến tận nơi

Cùng vui múa hát góp ngày hội chung

Hỡi anh em! Hãy thật xung!

Đội quân Hiệp Phước tưng bừng chiến công.

Một tháng không phải là nhiều để thực hiện hết nhưng điều mà chúng tôi mong muốn, tuy nhiên với sự cố gắng hết mình thì người dân ở đây cũng đã ghi nhận và hài lòng với những gì chúng tôi đã làm được.

Sau khi xuống tới nơi toàn đội chúng tôi chia về các ấp khác nhau, mỗi ấp chúng tôi sẽ ở tại hai đến ba nhà, mỗi nhà khoảng 5-6 người tuỳ thuộc vào sự đồng ý của chủ nhà, và cũng để tiện cho việc chăm sóc lẫn nhau thì mỗi nhà sẽ có một nửa nam, nửa nữ. Nhà của tôi ban đầu sắp xếp 5 người nhưng đến phút chót có một người không đi được nên chỉ còn lại 4, cho nên nhà tôi ở trở thành quân số ít nhất. Bốn người gồm tôi, Bình, Duyên và Dũng, Dũng trước đây là bạn cùng nhóm với tôi, Bình và Duyên là sinh viên khoa ngoại ngữ. Chúng tôi đã sống chung nhà gần một tháng và dẫu rằng không bình lặng hoàn toàn nhưng dù sao cũng có rất nhiều kỷ niệm đẹp cùng nhau.

Đề Xuất 10/2021 # Một Số Câu Hỏi Xoay Quanh Bài Thơ: “Ánh Trăng” # Top Like

Xem 198

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Câu Hỏi Xoay Quanh Bài Thơ: “ánh Trăng” mới nhất ngày 01/10/2021 trên website chúng tôi Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 198 lượt xem.

– Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng – người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt – NKTT). Và với bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời.

– Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Ánh trăng gần với tuổi ấu thơ của tác giả (d/c). Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời (d/c).

– Nhưng nếu chỉ có vậy, ánh trăng của Nguyễn Duy sẽ lẫn với vô vàn ánh trăng khác trong thơ ca hiện đại. Cũng giống như trăng của người bạn tù, vầng trăng của Nguyễn Duy đã thành “tri kỷ”, người bạn tình nghĩa. Ánh trăng thời chiến như chia sẻ những thử thách của chiến tranh, như cùng nhà thơ và đồng đội trải qua những kỷ niệm của thời “ở rừng”. Vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa ấy: dấu ấn của một thời gian khó: “ngỡ không bao giờ quên”.

– Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình – ký ức gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng.

– Cuộc sống hoà bình “ánh điện của gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Nhưng rồi thình lình đèn điện tắt… “đột ngột vầng trăng tròn”. Vầng trăng ấy đã đánh thức ký ức của tác giả, của thế hệ trẻ Việt Nam trong những ngày đánh Mỹ, tháng Mỹ.

– Ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng, không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hy sinh, những tôn thất thời đánh Mỹ ác liệt mới có cuộc sống hoà bình ngày hôm nay.

Câu 2: Hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ Nguyễn Duy qua bài thơ “Ánh trăng”.

– Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ là một hình tượng đa nghĩa.

+ Trước hết, vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên khoáng đạt, hồn nhiên, tươi mát. Trong hai khổ thơ đầu, vầng trăng hiện ra trong không gian của ruộng đồng, sông biển, núi rừng. Đó là vầng trăng của “hồi nhỏ sống với đồng” và sau này là “hồi chiến tranh ở rừng”. Lúc ấy, con người sống giản dị, “trần trụi với thiên nhiên – hồn nhiên như cây cỏ”. Vầng trăng trở thành người bạn tri kỷ, thành “vầng trăng tình nghĩa” gắn bó trong suốt những năm tháng từ thuở ấu thơ ở quê nhà, đến hồi chiến tranh sống ở rừng.

Đến khi về thành phố, sống giữa những tiện nghi hiện đại “quen ảnh điện, cửa gương”, con người bỗng quên đi cái vầng trăng “ngỡ không bao giờ quên” kia, bỗng vô tình với “cái vầng trăng tình nghĩa” kia. Sự vô tình đến mức tàn nhẫn:

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Rồi đến một đêm nào đó:

Thình lình đèn điện tắt… đột ngột vầng trăng tròn.

Con người đã quen với đèn điện nên quên trăng. Vầng trăng vẫn có đó nhưng “như người dưng qua đường”. Phải đến khi đèn điện tắt, con người mới lại nhìn thấy và nhận ra vầng trăng. Phải đột ngột như thế. Phải bất ngờ như thế, vầng trăng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc.

Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt”, mặt người và mặt trăng đối diện nhau. Đó là khoảnh khắc bất ngờ gặp lại “cố nhân”. Khoảnh khắc gặp gỡ đó khiến hồn người “rưng rưng” cảm xúc. Vầng trăng làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước.

+ Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.

Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao kỷ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỷ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.

Khổ thơ cuối cùng là nơi tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng:

Trăng cứ tròn vành vạnh

Kẻ chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình.

Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên chẳng thể phai mờ. “Ánh trăng im phăng phắc”, phép nhân hoá khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người đừng quên đi quá khứ. “Ánh trăng im phăng phắc” nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” nhận ra sự vô tình không nên có, sự lãng quên đáng trách của mình. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên, nhưng thiên nhiên và nghĩa tình quá khứ thì vẫn nguyên vẹn, vĩnh hằng.

Câu 3: Phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ “Ánh trăng”

– Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc – dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng.

– Cảm xúc “rưng rưng”: tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.

– Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỷ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.

Khổ thơ kết lại bài thơ bằng hai vế đối lập mà song song:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

… Đủ cho ta giật mình”

– Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “vầng trăng tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.

– Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lý làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.

Câu 4: Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ tượng trưng cho điều gì? Ý nghĩa khái quát của bài thơ “Ánh trăng”.

Gợi ý:

a. Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dãi, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng. Nhưng vầng trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ lặng im cao thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.

b. Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Những sông, đồng, biển, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của những người kháng chiến. THành phố là môi trường mới, là hình ảnh thật của những người kháng chiến không đặt chân tới (trừ các chiến sĩ hoạt động bí mật). Môi trường mới ???nghỉ mới, hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với thiên nhiên cũng có nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. Ánh trăng cảnh bao hiện tượng suy thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người cần thuỷ chung với quá khứ, với những điều tốt đẹp của quá khứ, đừng (có mới nới cũ).

Câu 6: Phân tích, so sánh hình ảnh “Trăng” (vầng trăng, mảnh trăng, ánh trăng…) trong các bài thơ “Đồng chí”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Ánh trăng”.

Gợi ý:

Trăng trong cả ba bài thơ đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng, người bạn tri kỷ của con người trong cuộc sống lao động và chiến đấu, trong sinh hoạt hàng ngày.

– Trăng trong “Đồng chí” là biểu tượng của tình đồng chí, gắn bó keo sơn trong cuộc sống chiến đấu gián khổ thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, biểu tượng của hiện thực và lãng mạn, trở thành nhan đề của cả tập thơ “Đầu súng trăng treo”.

– Trăng trong “Đoàn thuyền đánh cá” là cánh buồm chuyên chở và nâng bổng niềm vui hào hứng trong lao động làm chủ tập thể của những ngư dân đi đánh cá đêm, vẽ nên bức tranh sơn mài biển vàng biển bạc.

“Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé

Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”

– Trăng trong “Ánh trăng” là vầng trăng tròn vành vạnh, im phăng phắc đột ngột ùa vào phòng buyn-đinh tối om trong đêm hoà bình mất điện ở thành phố Hồ Chí Minh đã khiến nhà thơ giật mình, ân hận, day dứt về suy nghĩ và cách sống hiện tại của mình. Ánh trăng như người bạn thân nhắc nhở, lay tính lương tâm của tác giả: không được vô ơn với quá khứ, với đồng đội đã hy sinh với thiên nhiên nhân hậu và bao dung.

c. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng

Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Sự đổi thay của con người không làm vầng trăng cau mặt. Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. “Trăng tròn” là một hình ảnh thơ khá hay, không chỉ là ánh trăng tròn mà còn là tình cảm bạn bè trong trăng vẫn trọn vẹn, vẫn chung thuỷ như năm xưa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc!

– Từ cái đối mặt trực diện ấy, ánh trăng đã thức dậy những kỷ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên.

– Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gợi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỷ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt dưới hàng mi. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao.

“Ánh trăng hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

… Đủ cho ta giật mình”

– Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người.

+ Trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đày tìm người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc sống hoà bình hôm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ để cìm đắm trong một cuộc sống xô bồ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình.

+ Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta : con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

– Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giá và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” cảu sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Câu thơ thầm nhắc nhở chính mình và cũng đồng thời nhắc nhở chúng ta, những người đang sống trong hoà bình, hưởng những tiện nghi hiện đại, đừng bao giờ quên công sức đấu tranh cách mạng của biết bao người đi trước.

Theo Cẩm nang Ngữ văn 9

Bạn đang xem bài viết Đề Xuất 10/2021 # Truyện Cổ Tích: Ba Lưỡi Rìu # Top Like trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!