Cập nhật thông tin chi tiết về Hành Trình Thơ Thi Hoàng mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
“Nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây cao”
(T.H)
Thơ Thi Hoàng xuất hiện cuối giai đoạn chống Mỹ, cùng thời với một số nhà thơ Hải Phòng hồi đó, như Vân Long, Thanh Tùng, Hoàng Hưng, Đào Cảng, Phạm Ngà, Trịnh Hoài Giang… Họ bắt vào văn mạch Hải Phòng, khởi nguồn từ thời Thế Lữ, Khái Hưng, Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Văn Cao, Lê Đại Thanh…, cho nơi cửa sóng này được mệnh danh là “miền đất văn chương”. Giai đoạn sau này, Thi Hoàng nổi lên như một trong những gương mặt đổi mới tiêu biểu giai đoạn hậu chiến, ông là gạch nối giữa thế hệ “thơ chống Mỹ” với thế hệ đổi mới sau 1975.
*
Thơ Thi Hoàng có hai giai đoạn, tôi tạm định danh: hướng ngoại và hướng nội. Giai đoạn hướng ngoại thể hiện trọn vẹn trong tập thơ “Nhịp sóng” (Hội Văn nghệ Hải Phòng, 1976). Trước đó, Thi Hoàng còn có tập thơ đầu tiên in chung, lấy tên “Cửa sông” (Nxb Tác phẩm mới, 1971). Người viết bài này chưa tìm được tài liệu và cũng không thấy tác giả đưa vào “Tuyển trường ca và thơ” (Nxb Hội Nhà văn, 2010).
Nhà thơ Thi Hoàng
“Ta đang cách nhau một khoảng chết của quân thù” (Em ở phương xa). Câu thơ vang âm trong “Nhịp sóng”, nhắc nhở mọi người tinh thần cảnh giác, ý chí sắt đá lúc đó. Bài thơ “Rãnh khương tuyến”, có những câu thơ khét nồng mùi thuốc súng: “Những rãnh xoắn dẫn đầu đạn lên theo một đường sáng chiếu/ Nhằm phía ngực quân thù phá ra”. Nhưng sau những phút giây “Viên đạn vọt ra trong chớp mắt”, ta gặp được “Một khoảng trời xanh sáng bừng”. Ngay từ những bài thơ trong giai đoạn “khói lửa” này, Thi Hoàng đã sớm có những câu thơ mang phong cách riêng: “Mũi con tàu tinh anh như con mắt/ từ cửa sông này nhìn suốt đại dương…/ Vạt buồm muốn kéo cả bờ đi…/ Trời xanh lặng như đang điềm tĩnh lại” (Thành phố những cánh buồm mùa hè – cửa bể).
Thi Hoàng có nhiều câu thơ hương sắc trong giai đoạn chống Mỹ. Nếu thơ Chính Hữu hồi ấy réo vui khúc nhạc hành quân: “Những buổi vui sao, cả nước lên đường/ Xao xuyến bờ tre từng hồi trống giục…/ Hàng ngũ ta đi dài như tiếng hát”, thì thơ Thi Hoàng trong “Ba người hát giọng trầm” có những câu thơ gần với cách chuyển dịch ngôn ngữ của thế hệ thơ trẻ bây giờ: “Mái tóc mưa xuân, bàn chân mùa hạ”; hay, “Cửa kín lòng mình nhẹ mở theo ta”. Những câu thơ đẹp mong manh, mơ hồ tiêu biểu cho mỹ cảm của Thi Hoàng thời đó: “Miền đất hứa nắng dồn về bề bộn/ Ong rung hoa bách hợp, phấn rơi vàng” (Lên với vùng cao); cả những câu ám ảnh thấm đượm nồng ấm: “Nghe đằng sau thấp thỏm/ Như ai đi với mình” (Chiếc ba lô); hay non bấy và bay bổng khi “Một cô bé trong vòng múa chìa tay/ Tôi cầm lấy bay lên cùng lũ trẻ” (Trong vườn trẻ). Câu thơ mang cảm xúc tươi ròng, mãnh liệt tựa dòng nước mát lành từ lòng đất sâu trào lên: “Trời thì xanh như rút ruột mà xanh/ Cây cứ biếc như vặn mình mà biếc” (Ở giữa cây và nền trời).
*
Nhà thơ Thi Hoàng khá mạnh về trường ca, đó là sở trường của ông. Với trường ca, ông mở đầu giai đoạn hướng nội, thiết lập cho thơ mình không gian riêng biệt với những phức điệu, phối bè hấp dẫn. Với hai trường ca lớn, “Ba phần tư trái” đất (Nxb Hải Phòng, 1989) viết 1981 – 1984, “Gọi nhau qua vách núi” (Nxb Quân đội nhân dân, 1996) viết năm 1987 – 1994 và một số trường ca “mini”, “Oản tù tì, ra…” in trong tập “Bóng ai gió tạt” (Nxb Hội Nhà văn, 2001), “Bóng tối dưới chân đèn” in trong tập “Cộng sinh với những khoảng trống” (Nxb Hội Nhà văn, 2005)…, Thi Hoàng đã dành được “đất” cho mình ở thể loại này. Khác với những trường ca mang tính sử thi đơn tuyến, có cốt truyện, trường ca của Thi Hoàng có cấu trúc hiện đại với đa giọng điệu. Các chương/ phần trong đó có thể đứng độc lập như một bài thơ dài, nhưng khi đặt trong “tổng phổ”, chúng được phối ngẫu, đan xen, bổ sung cho nhau, giống như cách hòa âm, phối khí trong giao hưởng. Thậm chí, những ý tưởng được đan chéo qua các chương, đoạn của trường ca, làm người đọc hình dung như có một MC vô hình dẫn truyện từ đầu đến cuối.
Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, chúng ta nghe tên các chương có thể nhận biết được tính phân tán, nhưng thống nhất trong cảm xúc chủ đạo, nhìn thấy cái “thân cây” trong truờng ca của Thi Hoàng, để từ đó mọc ra những cành lá xum xuê, bời ngợp. Chương 1: “Có một người, có một hòn đảo”, Chương 2: “Nhà thơ và chiến tranh”, Chương 3: “Biển ở đất liền”, Chương 4: “Số một và tổng thể”, Chương 5: “Cuộc gặp gỡ của những người chết”, Chương 6: “Thư gửi hội nghị luật biển quốc tế”, Chương 7: “Kinh nhật tụng”, và Chương cuối: “Không phải là vĩ thanh”. Trong trường ca “Ba phần tư trái đất”, khá nhiều câu thơ hay với cách liên tưởng lạ, bất ngờ được thắp lên như ngọn đèn dẫn đường: “Đảo nhỏ đang đùa nô với nước mây giây lát rùng mình/ Rồi tĩnh tọa như nghìn năm vẫn thế” (Chương 1); “Hòn đá vỡ tung trong chiến tranh/ Bây giờ không nhận ra được nữa/ lẫn trong đá được ghè bằng búa/ Rải dưới đường bố con anh đi” (Chương cuối: Không phải là vĩ thanh).
Tiếp đến, trường ca “Gọi nhau qua vách núi” là cú nhảy đột biến, bất ngờ trong hành trình thơ Thi Hoàng. Trường ca này có thể gọi là bức tranh tổng quan, những mạch ngầm, cả những góc khuất của đời sống thời hậu chiến. Ông vẫn tiếp tục những thủ pháp trong trường ca “Ba phần tư trái đất” là thiết kế phân mảnh giữa các Chương (ở đây ông đặt là Phần), nhưng khác biệt rõ nét, là tạo sự đa dạng, đa giọng điệu ngay trong từng đoạn, tức là tạo ra cấp số nhân của những phân mảnh. Chúng được đan cài có dụng ý và biến hóa rất linh họat. Có phần ông sắp đặt ý tưởng, hình ảnh chồng lấn, xung đột bất ngờ như những chuyển động Brown, tạo nên những va chạm đến từ các hướng khác nhau, làm nên sự phồn tạp và biến ảo khôn lường như hình dung về đời sống đương đại. Các nhân vật A, B, C… trong trường ca thể hiện tối đa ý đồ này của tác giả, vừa là hữu danh, vừa vô danh, thắt ẩn, thoắt hiện, lúc là cái tôi, đơn vị bé nhỏ nhất, có lúc nhân danh cả “đại tự sự” trong suốt trường ca “Gọi nhau qua vách núi”. Ngay từ phần thứ nhất “Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người”, nhà thơ đã cho các nhân vật A, B, C lúc hiện thân thành đồng đội “A và B khóc C trong một tổ ba người”, lúc hóa thành đại ngàn vững chắc, chở che “A, B, C thành một cánh rừng rồi”. Đến các phần tiếp theo, ông lý giải các nhân vật trong các chiều kích tương quan, gắn bó và va đập của đời sống. Thi Hoàng đã thành công khi khắc họa vóc dáng thời đại của ông. Chúng hiện lên với đa dạng những khuôn mặt, lúc ngây ngơ như “con nghé tơ vơ vẩn đi tìm/ ai đánh mất quả chuông nào của nó” (Phần thứ nhất); lúc âm thầm làm “giọt mồ hôi ngoằn nghèo rủ rỉ trên lưng” trong Phần thứ mười: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”, lúc khắc khổ, ưu tư dè dặt: “Chính trị thời tôi chẳng phải như ong/ Chẳng phải như hoa để dễ dàng xúc động/ Ý thức hệ nào chìm trong mật nóng/ Mặc ong vô tình và hoa ngây thơ” (Phần bảy: Bồng bế một thời). Trong phần thứ chín “Thành phố nơi tôi sinh trưởng”, Thi Hoàng có câu thơ “Một đầu đường chẳng có ai trông ngóng/ Một buổi chiều không biết cất vào đâu”, ấy là chân dung tự họa ông trong cái nền chiều thành phố cảng rất độc đáo. Cả thành phố và nhà thơ hiện lên trong “bức tranh” với tâm trạng ngổn ngang, vừa muốn chuyển động vừa muốn dừng lại, thèm khát sẻ chia lại muốn cô đơn. Ở phần thứ mười, phần về đích của trường ca này: “A, B, C… (hay là tiếng gọi)”, tôi nghe thấy giọng gọi của nhà thơ đã khàn qua những “vách núi” ngăn cách giữa con người với con người, giữa những cá thể nhỏ nhoi với thiên nhiên, xã hội, và với cả những tập tục, ý thức hệ…
*
Thi Hoàng bắt đầu những biến chuyển làm mới khi thơ ông đã định hình phong cách, tạo được chất giọng riêng trong thơ Việt đương thời. Qua các giai đoạn, cảm thức nhân sinh, thế sự luôn là khí thở, là ánh sáng để ông nhận biết, đánh giá mọi biến đổi của đời sống. Phần lớn những bài thơ của ông đều thấm đẫm tinh thần này, ngoại trừ một số bài viết về thiên nhiên, người thân, trẻ nhỏ, như “Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, “Chú chim sâu bé nhỏ”… ông mới chịu rời xa cái “rễ cái” thế sự. Thi Hoàng thường trăn trở, quan tâm những vấn đề lớn, như ý thức hệ, lý tưởng, dân sinh, những áp bức, bất công đè lên vai những người khốn khổ, những thân phận trôi nổi bèo bọt… Trong trường ca “Gọi nhau qua vách núi”, ông dành trọn vẹn phần thứ tư để viết về chính trị. Lúc đầu, Phần này có tên khá “khiêu khích”: “Chính trị”, sau ông đổi thành “Bồng bế một thời”. Bằng cách biểu hiện đa dạng, phong phú, thơ Thi Hoàng, truớc hết vẫn là cách nói của thi sĩ, đau đớn mà giàu liên tưởng, phản tỉnh, gai góc, thậm chí dữ tợn nhưng đậm chất nhân văn: “Buổi chiều đẹp và mệt mỏi/ Mặt trời như người đàn ông vừa ra khỏi nhà/ Đi đánh bạc cho đến sáng/ Để bóng tối lấp đầy mặt người đàn bà như bông hoa rau muống tím/ Nghĩ mà thương cái bông hoa âm thầm…/ Cờ của Tổ quốc tôi là bàn tay mẹ/ Nắng gió sống trên năm ngón tay nứt nẻ” (Bồng bế một thời). Dù viết về thế sự hay bất cứ điều gì, ông luôn hướng đến cái Đẹp. “Lẽ phải”, trong nội hàm cái Đẹp, không đến dễ dàng, có khi phải chờ đợi, thắc thỏm qua nhiều thế hệ: “Lẽ phải dềnh dàng còn tế nhị gửi thưa/ với muôn trùng biến dịch/ Lẽ phải không tự tử cũng không bị ai giết chết/ Lẽ phải đến kia rồi ta đã già rồi thôi để con ta ra đón” (Lại theo đuổi tự nhiên).
Giai đoạn đầu cách tân, thơ Thi Hoàng dùng các mảng lắp ghép giống như tranh đồ họa, ưa dùng màu lạnh, như cố tình tạo ra những “bức tường” ngăn cách trong không gian ngột ngạt, ngổn ngang, gây cảm giác khó chịu, buộc bạn đọc tìm cách thoát ra khỏi nó, giải phóng nó. Hình ảnh trong thơ thường được ông bóp méo, kéo căng, chồng lấn, như cố tình cho chúng mọc ra những “chiếc gai” sắc nhọn, và, có lúc quá cỡ so với cái thông thường: “Nắng rầng rậc một sắc vàng quát thét/ Con còng chạy như điên băng qua cát ngạt/ Rất muốn ngọt ngào mà biển phải đành lòng mặn chát/ ta một nỗi niềm, biển một nỗi niềm, cát cũng một” (Với cát bỏng). Mọi câu thơ trong bài đều được kết thúc bằng những thanh sắc (quát thét… cát ngạt… mặn chát… lạnh buốt… gai nhọn…) tạo dựng một khoảng không lộn xộn với những va đập chói tai, nghe như tất cả bộ gõ trong dàn giao hưởng được tấu lên mà không còn loại nhạc cụ nào khác. Bài thơ này biểu hiện đặc trưng cách viết của Thi Hoàng ở giai đoạn đầu đổi mới: “Nắng quất nắng quật ư? Cũng chưa ghê gớm/ Bằng ánh mắt ta sao lại mọc những tia nhìn như gai nhọn”.
Thi Hoàng đã tạo được những xung động, sản sinh những nghĩa mới của chữ, tạo chữ mới lạ, sự biến ảo đa nghĩa trong từng câu thơ trên nền tảng của “đại tự sự”. Bài thơ “Tự thú”, rút trong tập “Đom đóm và sao” (Nxb Hải Phòng, 1997) là một minh chứng cách viết của Thi Hoàng giai đoạn khởi đầu cách tân của ông: “Ngày nép vào mắt mở/ Đêm nép vào mắt nhắm/ Tôi rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn xương thịt/ Hoá ra khoảng không yên lành là mẹ của ước mơ/ Còn nhịp bước tự nhiên của bàn chân, thế nghĩa là triết học”. Câu thơ “Tôi rình mò sự hoàn thiện đến cỗi cằn xương thịt” là một cách nói hình tượng hóa rất mới mẻ. Câu thơ ngoài nghĩa trực diện, còn cho thấy chuyển động bên trong của quá trình phân hóa/ hóa giải, quá trình tự hủy diệt và hoàn thiện trong mỗi cá thể. Kết hợp cái cụ thể với những khái niệm trừu tượng là cách viết của Thi Hoàng. Ông tự nhận/ tự thú là “kẻ thất thường hoang tưởng/ Từng tạo ra những hốc tối om cho sự thông minh ngồi im/ Rồi đột nhiên nhảy xổ ra đâm chết tâm hồn”. Bài thơ là một cách nhà thơ cật vấn chính mình, là lời tâm sự với người thân yêu những điều gan ruột, cho vơi đi nỗi lo lắng, bức bối đang chứa chất. Tâm trạng chán nản, cô đơn, nghi ngờ chính là “xương sống” đỡ lấy toàn bộ những “câu chuyện” trong bài thơ. “Tự thú”, là cách ông “lộn ngược chiếc túi” của mình, từ chuyện “ngồi gãi lưng dưới bóng cây… và ngáp, chuyện giày dép trẻ con, xó bếp, người được phong thánh, kẻ bị tử hình”, đến chuyện “quốc gia, chính trị cao sang như nước sạch”, đều được ông “thưa gửi” thẳng thắn, chân thành, lúc nghiêm trang, lúc cười cợt bi hài. Cả bài thơ như thấy ông đi lại ngất ngưởng, và, biết dừng lại ở những hình ảnh đẹp dù chỉ thoáng qua: “Giày dép trẻ con không phải chuyện đùa/ Có thể có thiên thần trong xó bếp…/ Tôi xin, mỗi sớm mai như cằm cô gái đẹp”. Trong hai câu kết bài thơ, nhà thơ tự đẩy mình xa vị trí tự thú ban đầu, mở ra ba góc nhìn: tác giả, hiện thực đời sống và người đọc, tạo những liên tưởng hỗn mang, đa chiều: “Tôi xa lạ với chính tôi/ Như mảnh trăng giữa trời nhìn trăng dưới đáy hồ, ngơ ngác…”
Cường điệu hóa những chuyển động của hình ảnh cũng là cách viết dụng ý của Thi Hoàng. Có lúc ông như cố ý “bình phương”, “lập phương” những hình ảnh, liên tưởng vốn đã được phúng dụ, như cố tình “đùa bỡn” người đọc, làm cho họ hình dung một thế giới vừa bày đặt trong thơ ông, thật như giả, giả mà như thật. Những câu thơ có cách liên tưởng kỳ quặc/ kỳ quái này chắc chỉ Thi Hoàng mới có: “Những nét chữ hay là những con giun/ Nguấy lên làm râm rẩm những cơn đau bụng thẩm mỹ…/ Tiếng phi cơ xé rách trán trời xanh” (Hiện thực tập mờ); “Chiếc lọ cổ rất lâu mới cất tiếng thở dài/ Tưởng nhả ra chiếc đinh khoảng không lút trong cuống họng” (Dấu vết); “Khoảng tối trong mồm bị nắng mắng mỏ/ Dẫu chỉ há ra kinh ngạc vì thế kỷ qua mau” (Giật mình… hoa phượng).
Thi Hoàng thường tiết chế tối đa những tính từ, gia tăng nhiều động từ, đẩy tốc độ của hình ảnh chuyển động nhanh hơn: “Ai đang hát trong mưa/ Nước như băm như thái” (Ai đang hát trong mưa); “Vo ve tiếng muỗi thả dây câu/ Ta dẫu nghỉm chìm nghe vẫn thấy” (Chân dung âm bản).
Ông vận dụng cách nói của ngôn ngữ thông tấn, giao tiếp, thể hiện ý tưởng của mình bằng những câu thơ lạ, chính xác: “Người bồm xộp như cắt ra từ nệm mút” (Để nhớ một cái tên); bằng những hình ảnh ám thị, ám ảnh: “Máy tính ti-vi màn hình có hôm nhùng nhầy như cục đờm thằng nghiện/ Trong ấy có không biết bao nhiêu vi trùng” (Lại theo đuổi tự nhiên); lúc sắc lạnh: “Lông con chó vàng bắt nắng đẹp thế kia/ Đừng có mà hoạnh họe” (Trình bày); những xúc cảm bộc phát, ngộ nghĩnh: “Bố con tôi xin chào nắng mới/ nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con); “Lá ngang nhiên xanh dưới trời da cá lạnh” (Dưới bóng cây).
Ông dùng chữ tinh tường, khôn hoạt, có lúc như người uống trà cố tình để lại một vài cọng trà trong miệng: “À ơi! Lóe sáng ru mù tịt” (Chân dung âm bản); “Nước rê vê hạt rơi soi rọi/ Rau ngây ngô từ lúc biết ngây ngô” (Tưới rau); “Sự chai lì cứ bóng bẩy dần lên cho mình trượt ngã” (Thế kỷ mới); “Những đêm tăm vũng nước tối mơ hồ” (Mùa hè của tôi); “Ý nghĩ lỏng ra đuôi cá quẫy đều” (Bóng tối dưới chân đèn). Chữ của Thi Hoàng thường tỉnh táo, biến hóa tài tình, nhiều lúc như một trò chơi, cho bạn đọc hình dung những quân bài “đô-mi-nô” đang theo nhau đổ xuống: “In trên bao nẻo mưa rơi/ Dấu chân một thời hăm hở/ Bước qua thời hăm hở nữa/ Cơn mưa đang tạnh kia rồi” (Mưa); lúc dùng từ gợi thanh, gợi hình lạ mà chuẩn xác: “Chiều áp tết tiếng giã giò thộp thệp” (Lại theo đuổi tự nhiên).
“Chú chim sâu bé nhỏ”, viết năm 1992, là bài thơ tiêu biểu cho cách dùng chữ của Thi Hoàng giai đoạn đầu đổi mới. Chữ, ở đây được ông tinh lọc kỹ lưỡng, có thể nói là điêu xảo, được đặt trong từ trường cảm xúc nhất quán xuyên suốt bài thơ. Chỉ có hai nhân vật, nhà thơ và con chim sâu, nhưng bạn đọc được chìm ngập trong không gian rộng lớn và thanh sạch, hình dung ông đang hóa thân, tan chảy vào thiên nhiên: “Chú chim sâu nhỏ giọt xuống lòng ta/ Những giọt đoan trang cho hồn ta nhuần nhị”. Đây là cách chơi chữ: “Chú chim sâu bé nhỏ/ Chim chim cơm nóng nuông chiều/ Chim chim nếp xôi đỗ ngậy”. Ánh sáng trong mỗi câu thơ vừa đủ cho bạn đọc thấy tài nghệ của ông, nhưng không lấn át cái “khí” của cả bài thơ như ta thấy ở một số bài khác ở giai đoạn sau này của ông. Bài thơ được viết với lòng biết ơn trời đất, thiên nhiên đã cho con người được ân hưởng từng giây phút kỳ diệu: “Tiếng tinh tích dường như ăn được vậy/ Ráng chiều như váng canh riêu”. Bài thơ mang vẻ đẹp nhân bản và hiện sinh.
Tuy nhiên cách dụng chữ của Thi Hoàng đôi lúc lại như chống lại ông. Bài “Lang thang ở Cúc Phương”, sau câu thơ “Chỉ biết đây là rừng xanh thành thực”, ông viết: “Vỗ về xanh rồi lại nỉ non xanh”. Cách dùng chữ tinh điệu, như chính xác này không phù hợp với “rừng xanh thành thực” ở câu trên. Ánh sáng, tiếng động từ “vỗ về xanh” vừa phát ra, chưa kịp lan tỏa đã bị “nỉ non xanh” chặn lại. “Vỗ về” và “nỉ non” lại biến thành hai gọng kìm xiết lấy câu thơ, chúng giống như đôi chim quý bị nhốt trong chiếc lồng hẹp. Chữ của ông đôi khi còn mang cảm giác gượng ép, cố tình: “Tiếng còi xe được nhìn thấy như mỡ rịn ra hai bên mép” (Lại theo đuổi tự nhiên). Và, ông đã lạm dụng sự thông minh của mình/ thái quá khi dụng chữ; đọc những câu thơ sau đây, ta ngỡ như nhiều “miếng ngon” bị ông liên tiếp đưa vào một “cái miệng” quá nhỏ: “Hắc ín kín bưng dính khét giọng rồ…/ Nắng sặc gạch đôi co đá bỏng…/ Vỡ ngữ pháp động từ đi tị nạn… Sáng quá ghê răng, sáng quá vỡ bát” (Quen thuộc với nỗi buồn).
Thơ có tính truyện được Thi Hoàng vận dụng rất linh họat, sáng tạo. Trong bài “Ngẫu cảm”, ông kể cứ tưng tửng từng mẩu chuyện như chúng chẳng ăn nhập gì với nhau. Chuyện thứ nhất: “Hòn đá rơi trúng đầu/ Chàng trai vào bệnh viện… rồi thành vợ thành chồng quấn quyện”. Tiếp đến mẩu chuyện thứ hai, “bông hoa đẹp nở kề bên ngọn thác” làm “người phải lòng hoa” với ra hái, “tuột chân” mà chết. Hai cửa sổ ấy mở ra trong một bài thơ để ông quan sát, làm xuất hiện câu thơ kết rất độc đáo và gây thảng thốt đến hoang mang: “Sáng dậy thấy còn mình cũng đã là vui!”. Những “câu chuyện” ấy đã đem đến cho bạn đọc nhiều liên tưởng xa hơn, đa chiều về “thiên nan vạn nan” của đời sống, nhân sinh, thế sự, về sự mong manh đầy hiểm họa của kiếp người.
Thơ văn xuôi được ông sử dụng trong trường ca “Oản tù tì, ra…” với nhiều phạm vi ngữ nghĩa cùng lúc được triển khai, tạo được những va đập, cộng hưởng: “Sông ngòi dãi bày chảy cộn ruột gan, phù sa để tóc dài với tay tắt vợi đi những chói gắt phân chia cho đài các dần lên, nền nã dần lên lùm bóng râm lương thiện”. Các câu thơ văn xuôi của Thi Hoàng thường có nghĩa khá xa nhau, nhưng được liên kết bằng cảm xúc mạnh, nên đã tạo được những khoảng trống cần thiết. Trong một vài trường hợp, ông để những hình ảnh chồng lấn thái quá trong một câu thơ, nên khi đọc toàn bài, người đọc có cảm giác chúng bị “nhiễu sóng”: “Những dấu chấm kia sau cơn mưa đã thành ra muôn vàn xoáy nước dìm chết không tiếc thương những tư tưởng váng dầu, nhưng mô thức lá khô củi mục…”
Thơ viết cho trẻ nhỏ là một mạch chảy ngầm, riêng biệt trong thơ Thi Hoàng. Nó xuyên suốt lộ trình thơ ông, luôn cuộn chảy dưới bề mặt ngổn ngang, gai góc và dữ dằn của đời sống hiện đại, và trong từng thời khắc, bất chợt phun lên những mạch nước trong suốt, mát lành. Mạch thơ cho trẻ nhỏ có lẽ được khởi nguồn từ phần thứ sáu của trường ca “Gọi nhau qua vách núi”, là nơi để nhà thơ nương náu, tránh những cạm bẫy dù là của ngôn từ hay do một trí thông minh sắc sảo lấn át. Bài thơ “Những đứa trẻ chơi trước cửa đền”, viết năm 1999, nằm trong mạch thơ hay viết về trẻ con. Đây là một “trò chơi” của trẻ thơ được nhà thơ bầy đặt trong không gian linh thiêng mà không huyền bí. Mọi nghi thức, tập tục đang diễn ra được “đại xá”, bởi nhà thơ đã xin ông từ giữ đền không “Chấp với bọn trẻ ranh rửng mỡ làm gì…/ Cho chúng nó chơi đừng đuổi chúng đi”. Nhà thơ gọi tên từng đứa trẻ, gợi cách đặt tên cho trẻ con vần với tên cha mẹ ở các làng quê Việt từ xa xưa, như “thằng Tâm con nhà bố Tầm, cái Nhân con bà Nhẫn”. Ngôn ngữ sinh họat, giản dị đậm chất folklore (dân gian, dân dã…) được nhà thơ vận dụng hợp lý, tài tình; như cách ông răn dạy, “mắng yêu” lũ trẻ: “Trước cửa đền không được giồng cây chuối…/ Lại còn hét lên như giặc cái”. Những hành động vui đùa, nghịch ngợm hồn nhiên của trẻ con trong một buổi chiều làm chúng ta thêm hy vọng khi thấy “Chúng như là hạt mẩy dưới hoàng hôn”. Bài thơ có cách viết tự nhiên, tinh nghịch như những cử chỉ hồn nhiên, bản năng của trẻ, hợp với cách chơi chữ tung tẩy của nhà thơ, được Thi Hoàng viết trong tâm thức tỉnh táo, không sa đà vào u minh, mù mịt… Khổ cuối bài thơ, ông có cách liên tưởng bất ngờ: “Chợt ngẫm thấy trẻ con là giỏi nhất/ Làm được buổi chiều rất giống ban mai”. Thi Hoàng đã để những trò chơi của lũ trẻ mở cửa một không gian khác, trong lành, thánh thiện ở câu thơ cuối: “Thánh cũng hân hoan. Đố ai biết được/ Ngài ở trong kia hay ở ngoài này”.
Tính phân rã và tự hủy trong tập thơ “Cộng sinh với những khoảng trống” đôi khi thể hiện ở thái độ thái quá trong cách vận dụng ngôn ngữ giao tiếp, sinh hoạt, hoặc cách thức chồng lấn những sự kiện, khái niệm trong một mạch thơ. Nếu lối tạo mạch thơ ấy được sử dụng liên tiếp trong những khổ thơ dài, dễ gây cảm giác như tác giả cố ý đánh mất cái không gian riêng biệt được mở ra từ đầu bài thơ: “Dúm gói cá nhân thăng hoa thăng hoét, thèm khát danh xước rách, suy nghĩ tận lực lôi ra từ ruột gan một trạng thái cũ mèm sao vẫn phải thăng hoa vẫn phải nghiến răng tận lực” (Bóng tối dưới chân đèn). Đoạn thơ sau đây như khúc hát của một gã du ca thời hiện đại, với giọng điệu đầy nghi hoặc và chán nản: “Phải tìm đường đi cho phế thải đi/ Chính gan ruột ta cũng đang làm việc ấy/ Khoác áo choàng tang của thuốc trừ sâu/ Thì đến ma-nơ-canh cũng chết huống chi người/ Trẻ con thích làm đám tang của búp bê thôi/ Còn người lớn rất thích làm đám tang cho các nguyên thủ” (Mở đường). Không gian thơ của Thi Hoàng thường hiện ra trước mắt bạn đọc, nửa như nhà thơ chủ ý sắp đặt, nửa như vô tình mà thấy: “Vỏ chuối trượt chân trời mạt rệp/ Hôi xì ghì ý nghĩ xuống đằng mông/ Buồn đại tiện chứ không buồn sáng kiến/ Đã khá lâu vợ chẳng muốn gần chồng” (Mở đường). Trong bài thơ dài “Mở đường”, Thi Hoàng còn vận dụng cách ví von, biểu hiện của bài đồng dao “rồng rắn lên mây…”, thật ngây thơ, mê đắm: “Phủ nắng Vàng có nàng Mưa nhỏ/ Trong quán trọ có khách gió to”. Nhưng bất chợt ông nổi xung bằng thái độ “thất thường”, gây chú ý đặc biệt: “Đắc thời thì nhắm rượu với đít của mình, mặt ghế với mặt người là một”.
Ở giai đoạn sau này, những hình ảnh trong một câu thơ thường được Thi Hoàng nén chặt, cô đọng hơn trước đây. Nó gây cho bạn đọc cảm giác như đã lấn chiếm cảm xúc chủ đạo của cả bài thơ: “Đèn quán đêm bạc ra như mủ chảy”; hay, “Ý hóa bãi lầy làm lời trượt ngã/ Lời ơi lời bùn đất có thương không” (Bệnh). Có một số trường hợp, ngay khi câu thơ vừa được ngân lên, thì nhà thơ đã tỏ thái độ nghi ngờ tính xác thực của nó: “Hay cú ngã ấy ở trên bùn đất giả”. Cách viết này đã làm nên đặc điểm, nhưng cũng bộc lộ những hạn chế của thơ Thi Hoàng. Rất nhiều những ý nghĩ vụn rời, biệt lập nhau trong liên tuởng, ngữ nghĩa lại đứng cạnh trong trong một khổ thơ: “Khi thật vui hay thật buồn/ thì thích ở ngoài sân hay trong nhà/ Đây không phải là một câu thơ/ Tóc còn đen mà làm quan rất to/ Đây cũng không phải là một câu thơ/ Mẹ ta mất đã hơn mười năm rồi” (Người đem thơ đi đâu).
Cùng với những câu thơ hay, độc sáng, thơ Thi Hoàng luôn giữ khoảng cách cần thiết giữa nhà thơ và bạn đọc, mà ít có những phiêu lưu, mạo hiểm. Có lúc ông cố tình giải thích một ý tưởng vừa viết, vốn đã khá rõ ràng, nhưng vẫn băn khoăn sợ người đọc có thể chưa hiểu hết. Ông là nhà thơ giỏi tự diễu, tự biết mình và thích cách nói thái quá: “Thì bằng những câu thơ vơ bèo vạt tép/ Ta cũng thành nhà thơ đấy thôi” (Người ta ai lại thế). Nếu đánh giá suốt hành trình sáng tạo của Thi Hoàng, thì tính cường điệu trong tự chiếu, tự giễu lại chính là thế mạnh, giúp cho nhà thơ biết bình tĩnh, lạnh lùng nhìn lại mình và liên tiếp thực hiện những cuộc khai phóng.
Đến tập thơ “Chìm vào mật nóng” (Nxb Hội Nhà văn, 2011), ngoài sự ổn định về cấu tứ nội dung và thủ pháp nghệ thuật, nhà thơ đã tìm về cách biểu hiện trong sáng ở tập thơ đầu, “Nhịp sóng” (1976), phát huy sự giản dị nhiều nội lực của “Ba phần tư trái đất” (1979), tầm vóc và phồn sinh trong “Gọi nhau qua vách núi” (1996), cũng như thể hiện tài hoa và bay bổng trong “Đom đóm và sao” (1997) và “Bóng ai gió tạt” (2001). Thơ ông lúc này như con nước lặng lẽ trong bài thơ “Sông đêm”: “soi thấy ta trong ánh đêm một khuôn mặt lạ lùng/ bí ẩn xõa tóc đen mượt/ hơi ẩm bảo nơi người, ngày bối rối thì đêm chải chuốt”. Hai câu thơ kết “Nước ong óng phải lòng và lịch duyệt/ Ăn mặc tử tế vào ra chào dòng sông” trở về cách nghĩ và cách cảm quen thuộc trong tập “Đóm đóm và sao”: “Bố con tôi xin chào nắng mới/ nắng thò tay sờ vào má mình” (Nắng mới và con). Thơ Thi Hoàng gần đây tuy vẫn gai góc, sắc nhọn nhưng ít nhói buốt hơn trước, vẫn giữ thái độ tự chiếu, phản tỉnh mà không cay cú: “Một im lặng săn chắc/ Nối vào miền tăm cá bóng chim/ Từ một tịt đến muôn vàn, chó đá giữ bình yên/ Trong lòng người có cái đẹp thường không thèm chấp” (Ngồi với chó đá). Mọi động chuyển, dư ba trong lòng ông như đã lặng dần xuống, muốn lắng đến trong veo: “thương giàn mướp leo qua vai ta ra quả/ mùi mướp hương thương mái bếp nhà nghèo” (Về cái không phải là tôi của tôi). Những cung bậc hờn giận, mất-còn buốt xót trong “Chìm vào mật nóng”, ngỡ như không còn nhiều hệ lụy đối với Thi Hoàng nữa. Ông là người “Kéo mộng gửi vào mơ tìm đêm rơi ngày tuột/ Miệng vết thương lên cao vút một giọng ca nhói buốt/ Tôi leo lên cái giọng ca kia nhìn xuống vết thương mình” (Mộng gửi vào mơ). Ta gặp cách nói chân thành, nhuần nhụy hơn trước: “Phận em chữ nghĩa rỉa ơ hờ/ trên trang giấy có dấu chân bỏ chạy” (Thương chị).
Thi Hoàng là nhà thơ luôn tự làm mới từng câu, từng ý, cố nhích lên theo dấu mốc thời gian dù chỉ nửa bước chân. Ý chí và tinh thần sáng tạo ấy của ông luôn là tấm gương, là bài học cho thế hệ cầm bút sau này. Tôi trân trọng ông ở thái độ ứng xử với thi ca trong những câu thơ: “Nhớ lại câu thơ mình riết róng viết ra/ Về phố cũ đường nét xưa di chú/ Chữ béo ú mắt díp lại ngái ngủ/ Trang giấy mặt đường không ra được ngã năm thiết tha…/ Đem đốt bài thơ đi cho nước non đứng đắn/ Cho trăng đàng hoàng thanh sạch sáng nghiêm minh” (Tôi không thấy thơ mình như trước nữa). Phải chăng ông tự mình đã nhìn thấy hết sức mình, biết chấp nhận “thất bại”, tuy bạn đọc có thể hiểu sự “thất bại” ấy chỉ do ông tự hoạch định, tự đặt ra ranh giới khắc nghiệt cho bản thân mình. Như nương vào sự thông minh, nên ông đã nhìn thấy đích đến, hoặc chân trời xa hơn, rộng hơn, nhưng biết mình không thể vượt qua nữa. Phẩm chất đó của ông chính là tài sản quý để lại cho thế hệ cầm bút tiếp theo, trên hết, là cái Đức và lòng dũng cảm của kẻ sáng tạo.
*
Thơ Thi Hoàng là những chặng đường từ truyền thống đến hiện đại, cách tân kết hợp với những giá trị ổn định trong mọi vỉa tầng của văn hóa dân tộc, đóng góp quan trọng vào cuộc đổi mới thơ Việt trong hai thập niên qua. Nhà thơ Thi Hoàng từng đọat nhiều giải thưởng văn học, trong đó có Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1996, cho tác phẩm “Gọi nhau qua vách núi” và Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật 2007, cho nhóm tác phẩm “Nhịp sóng”, “Ba phần tư trái đất”, “Gọi nhau qua vách núi”, “Bóng ai gió tạt”. Trong lời mở đầu bài viết, tôi nhận xét thơ Thi Hoàng là gạch nối giữa thế hệ ông với một số nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng cách tân sau 1975; bởi, ông không thể vượt qua từ trường, giới hạn mà thời đại, thói quen, và, có thể chính cá nhân ông đã trù định. Có thể gọi Thi Hoàng là nhà thơ của trường ca. Đây là miền đất rộng để ông được tự do bầy đặt ý tưởng và thể hiện bút lực của mình. Từ “rễ cái” nhân sinh, thế sự, thơ ông lan tỏa, bời ngợp nhiều lĩnh vực, với giàu có liên tưởng, phồn tạp cảm xúc trong đa dạng bút pháp. Nếu mỗi thế hệ có ý thức hệ, có tiếng nói của riêng mình, thì Thi Hoàng đã đi xa hơn thế hệ, tuổi tác của ông. Trong thơ ông có hai con người, vừa già vừa trẻ. Thi Hoàng là người trẻ vì sức bật dũng mãnh, liên tiếp thực hiện những cuộc lên đường, làm cho thơ mình biến đổi rõ nét qua từng giai đoạn. Nhưng ông khác biệt thế hệ trẻ, là luôn tự chiếu, tự biết giới hạn dừng lại, như trong một câu thơ của ông có “chân trời” mà ông từng lo sợ đó là “chân trời kim loại”: “Đắp một con đê theo dọc lòng mình/ Ngăn ý chí đẩy xô tới chân trời kim loại”. Thi Hoàng cũng đã vượt qua sự cản ngăn của “chân trời kim loại” trong lòng mình. Đó là con người không ngừng tìm tòi những giá trị cách tân về tư tưởng cho thơ ca, không chịu làm kẻ soi ngắm những thành quả đã gặt hái trong đời thơ của mình. Ông đã “Nâng chiếc mầm lên tận đỉnh cây cao”, như sức bật của kẻ gắn thơ với triết luận.
Hải Phòng, 12/2012 M.V.P
Hành Trình Trưởng Thành Của “Cậu Bé Người Gỗ Pinocchio”
Truyện cổ tích về cậu bé người gỗ Pinocchio quen thuộc với bao thế hệ thiếu nhi thế giới hơn thế kỷ qua, với bài học về sự trung thực. Hãng Walt Disney đã từng dựng truyện thành phim hoạt hình, nay điện ảnh Ý đã chuyển thể thành phim phiên bản người đóng với giá trị nội dung nguyên vẹn và những điểm sáng tạo thú vị. Tại Cần Thơ, phim đang chiếu tại các cụm rạp của CGV và Lotte Cinema.
Pinocchio vốn là rối gỗ được tạo nên bởi đôi tay của người thợ mộc nghèo Geppetto. Khúc gỗ dùng để đẽo Pinocchio khá kỳ dị nên cậu bé có thể đi đứng, nói năng và suy nghĩ như một người bình thường. Ông Geppetto quá hạnh phúc và bất ngờ, nên hết mực yêu thương Pinocchio và coi cậu như con trai. Tuy nhiên, cậu bé nghịch ngợm, ngang bướng đã khiến ông nhiều phen khốn khổ. Nhất là khi Pinocchio trốn học đi xem kịch rối và bị bắt cóc, ông đã bôn ba khắp nơi đi tìm. Về phần cậu bé, trải qua nhiều biến cố và hành trình đi tìm cha khiến cậu ngày càng trưởng thành hơn.
Phiên bản người đóng “Cậu bé người gỗ Pinocchio” (ảnh) khá sát nguyên tác khi nhắc lại đầy đủ sự kiện xảy ra trong chuyến phiêu lưu trên trang sách: từ chuyện cậu bé bị bắt đi theo gánh xiếc, bị biến thành lừa, được nàng tiên xanh giúp đỡ, đến đoàn tụ với cha trong bụng quái ngư… Tuy phim có những điểm sáng tạo về các sự kiện trong cuộc phiêu lưu của Pinocchio nhưng vẫn giữ nguyên tinh thần, ý nghĩa của truyện, truyền tải rõ ràng bài học làm người cho thiếu nhi. Từ việc cậu bé ham chơi, bướng bỉnh đến những hậu quả cậu phải gánh chịu đều có ý nghĩa giáo dục thiết thực. Trải qua nhiều sự cố, Pinocchio dần hiểu chuyện. Khi gặp lại cha, cậu bé đã tỏ lòng hiếu thảo, chăm sóc cha, đi làm kiếm tiền lo cho cha… Điều đó đã giúp cậu bé nhận được món quà xứng đáng từ nàng tiên xanh.
Đặc biệt, tình yêu thương của người thợ mộc dành cho Pinocchio được khắc họa chi tiết và khiến người xem cảm động. Ông đã dành cho Pinocchio tất cả điều tốt nhất, chắt chiu từ cuộc đời vốn đã chẳng còn gì nhiều: cắt tấm trải giường may cho con trai một bộ quần áo chỉnh tề, bán đi áo khoác giữa tiết trời lạnh giá để mua cho chú rối gỗ cuốn sách học vần, tha thứ các lỗi lầm của con và đi tìm Pinocchio khi cậu bị bắt cóc…
Phần kỹ xảo và tạo hình các nhân vật của phim được thực hiện chỉn chu, công phu, tạo nên thế giới cổ tích kỳ ảo. Nhưng điểm trừ lớn nhất của phim chính là không nhấn mạnh vào chi tiết quan trọng nhất của câu chuyện kinh điển. Đó là mỗi lần nói dối, mũi của Pinocchio sẽ bị dài ra. Trong phim, chỉ duy nhất một lần mũi cậu bé bị dài do nói dối nàng tiên xanh, còn lại phim hoàn toàn không nhắc đến. Ngoài ra, một số tình tiết phim không được làm rõ hoặc chưa thuyết phục người xem.
Phim đã nhận được 15 đề cử David di Donatello Awards, giải thưởng được xem như Oscar của Ý trong năm 2020 và đã chiến thắng 5 trong tổng số 15 đề cử. Bên cạnh đó, phim cũng được đề cử 2 Quả cầu vàng của Ý ở hạng mục đạo diễn và quay phim xuất sắc; mang về 6 trong tổng số 10 đề cử giải thưởng của Hiệp hội Báo chí điện ảnh Ý.
CÁT ĐẰNG
Nhà Thơ Thi Hoàng: Khuôn Mặt Như Ngọn Đèn Vặn Nhỏ
Từ trong dàn đồng ca, Thi Hoàng bật ra không ít lời thơ vang dội, mà hai câu “cây cứ biếc như vặn mình mà biếc/ trời thì xanh như rút ruột mà xanh” trong bài “Giữa cây và nền trời” vẫn được nhiều người xưng tụng. Tuy nhiên, hãy hỏi, sao cái sự biếc lại vật vã thế, sao cái sự xanh lại đau đớn thế?
Nào đâu phải riêng thiên nhiên, mà chính nhà thơ trong câu thơ ấy cũng làm một cuộc vượt thoát cam go khỏi từ trường chữ nghĩa minh họa sản xuất và miêu tả sự việc. Ý thức khác biệt giúp Thi Hoàng có thêm một dấu son nữa để nổi danh giữa thế hệ nhà thơ trưởng thành cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước: Bài “Thành phố những cánh buồm – mùa hè – cửa bể” không chỉ lạ nhờ cách đặt tên mà còn nhờ hình ảnh “cơn gió đất đưa ta qua đầu sóng/ vạt buồm muốn kéo cả bờ đi”.
Năm 1976, tập thơ đầu tay “Nhịp sóng” được ấn hành, khép lại một thời Thi Hoàng trẻ trung làm thơ tùy hứng. Với ưu điểm sử dụng ngôn ngữ tạo cảm giác mạnh, Thi Hoàng liên tục quẫy đạp qua các tập thơ và trường ca “Ba phần tư trái đất”, “Gọi nhau qua vách núi”, “Bóng ai gió tạt”, “Cộng sinh với những khoảng trống”, “Chìm vào mật nóng”…
Có đôi lúc bàn chân thơ của Thi Hoàng bước chới với sang miền cách tân hụt hẫng “tôi làm thơ theo kiểu/ tát cạn bắt lấy thôi/ cho đến khi bắt được/ thì câu thơ chết rồi”, vẫn thấy nghiêng ngả một bóng dáng khát khao sáng tạo. Theo logic tâm lý học, khi con người khước từ bản năng bầy đàn thì dễ nảy sinh hai thái cực, hoặc tôn thờ sự nổi loạn, hoặc sùng bái sự cầu kỳ.
Trước tiên, Thi Hoàng tự đứng riêng bằng giọng điệu dữ dội “ai đang hát trong mưa, nước như băm như thái… ai đang hát trong mưa, nước như véo như tát”, hoặc “tiếng hát em một thời vón vào trong viên đạn/ mặt kẻ thù tắt lịm sau bờ cây”, hoặc “em làm cao sang viên gạch lát vỉa hè/ làm rực rỡ, bồn chồn những giọt máu đã hy sinh, mất mát/ làm mảng nắng dưới chân tường ngây ngất”, thỉnh thoảng lại pha thêm chút lý sự “giữa muôn nghìn cái riêng trong con người có một cái chung/ là trái tim không chịu được sự lạnh lẽo và hoang vắng” hoặc “giờ thì ta khóc đây, nước mắt làm dịu đi khi vật chất nổi khùng/ khi tinh thần bị vặn hết răng không nhai được món ăn cảm xúc/ khi đồng tiền định ăn hiếp trái tim trong túi ngực”.
Chính Thi Hoàng nhận ra yếu điểm cũng là điểm yếu của mình “chữ nghĩa gườm gườm như thời trang hầm hố/ triết học mọt nghiến vào thớ gỗ/ thơ gieo vần kèn kẹt thế kia ư”, và thay đổi bằng giọng điệu lắt léo “mặt trời lặn sang bên kia vạt áo/ con đường miên man leo ngược lên trời/ vòm chiều chín đầy những lời khuyên bảo” hoặc “ai đang lùng sục trong xương cốt/ nhức buốt lần mò đi hành hương/ ta thấy ta ngày càng nhỏ tắp/ như chân nhang cắm mả bên đường” hoặc “hoa phượng đỏ lúc nào không biết nữa/ kim phút thụ thai, kim giờ có chửa/ vã mồ hôi những sản phụ đồng hồ/ đẻ ra quái thai cái-vẻ-mặt-thờ-ơ”.
Quá trình chuyển tiếp giọng điệu dữ dội sang giọng điệu lắt léo, Thi Hoàng có được vài câu thơ đáng nhớ “mắt em ngước lên như mặt nước ao đầy” hoặc “những sắc màu đánh nhau trên cánh bướm”. Cuộc truy đuổi bút pháp cá nhân có không ít khúc quanh nhọc nhằn, Thi Hoàng cam kết khi “xin phép xuất bản” khá sòng phẳng: “Tôi có lý tưởng hẳn hoi/ và tôi yêu Tổ quốc/ điều này làm tôi vững tâm/ vật gì trong tầm tay tôi, tôi có thể dám cầm/ dẫu vật ấy có khi là thuốc nổ/ xin người yên tâm, xin người đừng sợ/ kẻ tan thây trước hết sẽ là tôi”.
Thử làm một độc giả thiện chí đi cùng nhà thơ “tôi sinh ra dưới cánh hải âu/ cái cuống rốn vùi trong cát mặn” cũng hơi cay cực “thơ đọc nhọc khóc róc nước mắt”, nhưng luôn được đền bù tương đối xứng đáng. Bởi lẽ, Thi Hoàng thường có những câu thơ đột sáng cứu vớt cả đoạn thơ hoặc cả bài thơ. Ví dụ, trong trường ca “Gọi nhau qua vách núi” bên cạnh phẩm chất con người đất cảng khốc liệt “thành phố đàn bà yêu như độc ác/ nổi cơn ghen chém xả bả vai chồng/ thành phố nghênh ngang, thành phố đàn ông/ hất hàm chào nhau đá vỏ đồ hộp” thì một góc Hải Phòng hiện ra đẹp bảng lảng, đẹp xa vắng: “dấu nhật ấn trên con tem bưu điện/ gửi về đâu địa chỉ tuổi lên mười/ gửi cho ai mái phố gió bời bời/ gửi cho ai những ngày thừa, khoảng trống/ một đầu đường chẳng có ai trông ngóng/ một buổi chiều không biết cất vào đâu”.
Đường thơ Thi Hoàng dẫu lô nhô gạch đá gây gổ và dẫu ngổn ngang hố hầm dọa nạt “gió mây chờn vờn nôn mửa thốc tháo/ mắt ti hí mặt trời nhìn đứt cuống họng/ tiếng kêu ném đá vào ruột gan”, thì vẫn thấy lấp lánh những hạt vàng tài hoa.
Sự tinh tế trong thơ Thi Hoàng có thể chia làm ba cấp độ.
Thứ nhất, sự tinh tế có yếu tố quan sát “những con cá khô phơi trên đá trên hè/ dường như chúng nghỉ ngơi rồi chốc nữa lại về biển cả” hoặc “nhìn tấm lưng biết có một người tốt đi qua/ ở người ta có khi cái lưng nói nhiều hơn cái mặt/ sự nhân ái giả vờ thường chường ra phía trước/ nỗi nhẫn nhịn thương người lại hay ẩn đằng sau”.
Thứ hai, sự tinh tế có yếu tố suy tưởng “Năm 1954 – Vĩ tuyến 17/ mỗi chúng tôi đều bị cưa ngang/ chiếc thắt lưng vẫn thắt bình thường đột nhiên cứ làm mình ghê rợn/ đến một sớm mai ra/ nửa dưới hoặc trên thân thể sẽ không còn” hoặc “hoa sen không định thơm/ không định thơm thì mới thơm như thế/ rất tự nhiên là ta nhớ mẹ/ mẹ quá xa rồi/ để ta thành con cái của làn hương” hoặc “chợt ngẫm thấy trẻ con là giỏi nhất/ làm được buổi chiều rất giống ban mai/ thánh cũng hân hoan… đố ai biết được/ Ngài ở trong kia hay ở ngoài này”.
Thứ ba, sự tinh tế có yếu tố xuất thần, ở vùng đệm giữa có và không, giữa hư và thực, Thi Hoàng níu giữ được những khoảnh khắc chỉ cần chớp mắt sẽ biến mất, đó là “Nỗi niềm” thoáng đưa “trong nhà ngoài sân bây giờ/ toàn những khoảng không không có mẹ/ khoảng không ơi khoảng không/ khoảng không không che ai khuất cả/ sao khoảng không che mất mẹ ta”, đó là phút giây “Lang thang ở Cúc Phương” xanh thẳm “cứ như đi vào những ngày không có trong đời mình/ những ngày trời cho thêm không tính vào tuổi thọ”, đó là ham muốn “X-quang” bản thân “mẹ càng hiền lành hơn sau ngày mẹ mất/ mơ thấy mẹ vá áo cho con ngay lúc con đang mặc/ không phải cởi ra đâu, sợ áo nhạt hơi người”.
Thi Hoàng thừa hiểu “cái đẹp nhiều khi cũng oái ăm/ cầu toàn quá hóa ra mù tịt”, nhưng vận động là nhu cầu đeo bám nhà thơ đích thực. Thi Hoàng tìm ra lời giải đáp ngay trong sự loay hoay. Thi Hoàng phát triển thơ theo hai hướng. Một hướng chao chát kỹ thuật, kiểu như “mê mướt gió se môi chiều cắn chỉ/ cây im nước lặng mắt em mềm/ vạt nắng ứa hiên nhà từ duy mỹ/ nhẹ nhàng sang duy cảm tóc em đêm” hoặc “nghe chó sủa vầng hào quang quáng gà/ hoàng hôn chua cay vẩn đỏ một chân trời tương ớt/ miệng vết thương lên cao vút một giọng ca nhói buốt/ tôi leo lên theo cái giọng ca kia nhìn xuống vết thương mình”.
Một hướng thô ráp đời sống, kiểu như “biến cái đẹp thành cái ăn/ mang giá trị thâm canh như đồng tiền rách nát/ lấy biên lai ở cửa hàng danh vọng/ về thanh toán với con tim, về đòi nợ hoa hồng” hoặc “tôi cũng từng được chia quỹ đen được phần sổ đỏ/ góp bâng quơ để dây máu ăn phần/ cũng đem ra nắng vàng phơi phóng chút vinh quang đến Tây đen cũng đỏ mặt/ xin mang nỗi ngượng ngùng bón xuống đất/ mang tinh thần vô cơ thành vật chất hữu cơ/ trồng một vạt rau xanh mơ ước”.
Thi Hoàng rất dụng công cho thơ. Mỗi bài thơ đối với Thi Hoàng như một cơ hội xây dựng hình tượng, hoặc như một cơ hội chau chuốt ngôn từ. Thi Hoàng chấp nhận luật chơi “chữ với nghĩa đi tìm nhà trọ/ sống thử với nhau xem có thành bài thơ/ đã có thuốc tránh thai như là thi pháp/ cãi hộ cho ta những xúc động giả vờ”.
Những câu thơ như “đóng đinh vào những sự tình/ đau thon thót rót cho mình tiếng chim” hoặc “sông thả lỏng một nỗi buồn mướt mượt/ sau vai đê khói vờn lên não nuột” mang đến cảm giác hào nhoáng chốc lát, rồi lộ ra một thủ thuật tuyệt vọng nhằm che đậy trí tưởng tượng đang bị trượt ngả trước bờ vực chai lỳ rung động thẩm mỹ.
LÊ THIẾU NHƠN
“Đệ Nhất Thi Sĩ Miền Nam” Vũ Hoàng Chương – Lạc Loài Trong Cõi Nhân Sinh
Khi tiếng kêu đớn đau của thi sĩ Hàn Mặc Tử ở phương Nam chợt vụt tắt, thì vòm trời thi ca đất Việt dường như chỉ còn một Vũ Hoàng Chương đang quằn quại với những vết thương xẻ nát tâm hồn. Thì kỳ lạ thay, từ chính vết thương đang rỉ máᴜ ấy lại vẽ ra một lối đi riêng, một con đường cho thi ca ngay từ buổi đầu đến với thơ mới.
Nếu ai đó đã nói, thơ là tiếng nói hồn nhiên trong trẻo của tâm hồn, là tuổi thơ của loài người còn sót lại… thì quả thật với Vũ Hoàng Chương, nó lại là tiếng bi ai được cất lên từ nỗi đau rách nát của linh hồn. Chính vì vậy, thơ ông đã chạm đến tận cùng nỗi đau và sự cảm thông của con người. Để rồi thơ văn Vũ Hoàng Chương không chỉ đóng đinh vào lòng người, mà còn dán chặt tên tuổi ông vào nền văn học nước nhà. Ông viết nhiều thể loại, từ thơ, văn đến cả kịch thơ… Hơn hai chục tác phẩm tuy chưa hẳn đã là nhiều, nhưng chính tư tưởng, hình tượng nghệ thuật mới làm nên chân dung và sự nghiệp sáng tác đồ sộ Vũ Hoàng Chương.
Vũ Hoàng Chương sinh năm 1915 tại Nam Định, trong một gia đình nho giáo. Cha ông là quan tri huyện, mẹ ông cũng hay chữ, yêu văn học và âm nhạc, nên ông được học và tiếp cận với Hán văn từ nhỏ. Sau đó, Vũ Hoàng Chương học tiếp tiếng Pháp và vào học trung học, đỗ tú tài Pháp tại Hà Nội năm 1938. Đang học luật ông bỏ đi làm ngành hỏa xa và in tập Thơ Say đầu tay vào năm 1940. Năm 1941 ông theo học khoa toán, Đại học khoa học Hà Nội. Rồi một lần nữa ông lại bỏ xuống Hải Phòng dạy học và cùng với Chu Ngọc, Nguyễn Bính lập ra Ban Kịch Hà Nội.
Năm 1943 ông in tập thơ Mây, rồi theo kháng chiến. Một thời gian sau ông bỏ kháng chiến về thành, rồi di cư vào Nam. Từ đây ông theo nghề dạy học và viết văn làm thơ. Thời gian này, ông viết nhiều, được dịch và in ra nhiều thứ tiếng. Do vậy, tên tuổi ông đến gần hơn với bạn đọc nước ngoài cũng như văn bút quốc tế.
Sau năm 1975 ông bị bắt vào tù và mất ngay sau đó vào tháng 9 năm 1976.
Có thể nói, Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lớn của dân tộc. Nếu nhìn lại văn học sử, ta có thể thấy: Sau sự cổ vũ của các cụ Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh… Vũ Hoàng Chương góp phần không nhỏ, cùng với những Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận… mở đường tiên phong cho phong trào thơ mới từ những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi. Thơ ông sang trọng, giàu nhạc tính, tuy cách tân mà vẫn mang mang hoài cổ.
Tập Mây (in năm 1943) và Lửa Từ Bi (năm 1963) có thể chưa phải là những thi tập hay nhất của Vũ Hoàng Chương, nhưng với tôi, nó là hai tập thơ tiêu biểu nhất cho từng giai đoạn, tư tưởng cũng như thi pháp sáng tác của ông.
Vũ Hoàng Chương xuất hiện vào thời kỳ cuối của phong trào thơ mới bằng tập Thơ Say. Nhưng phải đến thi tập Mây (năm 1943) tên tuổi ông mới được khẳng định trên thi đàn. Và tập thơ này đã làm rung động giới thưởng ngoạn, bởi giọng điệu thơ khác hẳn với những thi sĩ cùng thời.
Thật vậy, khi đọc và và nghiên cứu sâu về thơ Vũ Hoàng Chương, tôi mới chợt nhận ra cái tôi, cái riêng biệt trong thiên tình sử của ông, sao mà nó khác với những tuyên ngôn tình yêu, dành cho hội trường, đọc nơi đông người như trong thơ tình Xuân Diệu đến vậy. Với khoảng cách, sự trái ngược này, chỉ có cảm thụ của cá nhân người đọc mới có thể tự so sánh rạch ròi. Nếu được phép gắn ông hoàng, bà chúa cho thơ (tình) như người ta vẫn thường làm, với tôi chắc chắn vương miện đó phải được trao cho Vũ Hoàng Chương.
Sinh ra, lớn lên trong gia đình quyền quí, nhưng cuộc sống, tình yêu Vũ Hoàng Chương luôn tuyệt vọng, chán chường. Để tự thoát ra khỏi cuộc sống bơ vơ nơi địa ngục:
“Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh”
Ông đã treo hồn mình lơ lửng giữa vòm trời thi ca. Và Vũ Hoàng Chương không chỉ lạc loài giữa cõi nhân sinh hiện hữu này, mà chính linh hồn ông cũng lạc khỏi thân xác mình. Do vậy, đọc Vũ Hoàng Chương, ta có cảm giác thơ ông được chiết ra từ khói thuốc, men rươu trong những cơn chao đảo, thất tình điên loạn.
Vâng! Chỉ có những cơn say ấy mới có thể nhập linh hồn vào với thể x̠ác, để thi nhân đủ can đảm đi đến tận cùng sự thật đắng cay. Những tiếng kêu bi thảm đó, làm ta ngỡ, trái tim người thi sĩ tựa hồ vỡ vụn. Và biết bao đêm trường như vậy, nấm mồ sầu thảm đó vẫn được đong bằng nước mắt của thi nhân:
“Là thế là thôi là thế đó Mười năm thôi thế mộng tan tành Mười năm trăng cũ ai nguyện ước Tố của Hoàng ơi Tố của Anh
…
Men khói đêm nay sầu dựng mộ Bia đề tháng sáu ghi mười hai Tình ta ta tiếc cuồng ta khóc Tố của Hoàng nay Tố của Ai”
Có lẽ, không có nỗi đau nào bằng sự đổ vỡ, phụ bạc của tình yêu, nhất là trái tim dễ vỡ của thi nhân. Và Vũ Hoàng Chương cũng không nằm ngoài cái qui luật đó.
“Yêu sai lỡ để mang sầu trọn kiếp Tình mười năm còn lại mấy tờ thư!”.
Đứng trước sự bế tắc của xã hội và tình yêu nhà thơ luôn cảm thấy lạc loài, bơ vơ với cuộc sống đang hiện hữu, nên luôn luôn muốn từ bỏ, thoát ly nó, tìm đến cõi mộng ảo địa đàng. Thật vậy! Vũ Hoàng Chương đang trốn chạy, tìm nơi ẩn nấp. Và cứ tưởng rằng, trốn vào men say và khói thuốc, thì sẽ mất đi nỗi đau, sầu nhớ đó, nhưng rượu đã cạn, thuốc đã tàn càng buốt lạnh thêm tâm hồn thi nhân:
“Say đã gắng để khuây sầu lẻ gối Mưa, mưa hoài rượu chẳng ấm lòng đau Gấm thế nào từ buổi lạnh lùng nhau Vàng son có thay màu đôi mắt biếc?
Tình đã rời đi riêng mình tưởng tiếc Thôi rồi đây chiều xuống giấc mơ xưa Lá, lá rơi nằm bệnh mấy tuần mưa Say chẳng ngắn những đêm dằng dặc nhớ…”.
Có thể nói, Mây là tập thơ hay và tiêu biểu về sự bế tắc tình yêu, cuộc sống của Vũ Hoàng Chương. Trong đó, có một số bài, một số câu thơ mới táo bạo đã đạt đến độ toàn bích. Có lẽ, ở thời điểm đó, ngoài Vũ Hoàng Chương không ai dám viết và viết hay được như vậy. Có một điều đặc biệt, đa phần những bài thơ hay của ông đều thuộc thể thất ngôn. Ta hãy đọc lại đoạn trích trong bài Đời Vắng Em Rồi, để thấy rõ sự chia ly và tình yêu đắng chát như vậy, nhưng lời thơ rất đẹp, nhẹ nhàng và trau chuốt:
“…Em ơi lửa tắt bình khô rượu Đời vắng em rồi say với ai”
…
Tuyết xuống phương nào lạnh lắm không Mà đây lòng trắng một mùa đông Tương tư nối đuốc thâu canh đợi Thoảng gió trà mi động mấy bông.”
Trong cuộc sống đầy thị phi này, có rất nhiều người có những mối tình đầu đổ vỡ, đắng cay. Nhưng thất vọng sầu thảm, gục mặt vào bồng bềnh men khói, tìm đam mê, khoái cảm, quên đi nỗi buồn dằng dặc như Vũ Hoàng Chương, thì quả thật trong văn học sử đất Việt, (ngoài Hàn Mặc Tử cùng thời) dường như chỉ có nhà thơ, nhà biên kịch Lưu Quang Vũ (có thể) coi là hậu nhân của ông mà thôi.
Vũ Hoàng Chương là người giỏi Hán Văn và chịu nhiều ảnh hưởng Đường thi. Mỗi lần đọc ông, ta lại thấy hồn cốt của Bạch Cư Dị, Lý Bạch… chợt hiện về. Những Đà Giang, Nghe Hát… đã nối dài thêm mạch chảy Tỳ Bà Hành, một thi phẩm gắn liền với tên tuổi Bạch Cư Dị. Và khi viết, ông sử dụng nhiều từ Hán Việt cũng như hình tượng điển tích, làm cho lời thơ sang trọng ẩn chứa thiền triết hoài cổ. Những nét phương đông cổ kính ấy cho ta cảm giác gần gũi lạ thường.
“Từ thuở chàng say ôm vũ trụ Thu trong bầu rượu một đêm trăng. Nhảy xuống muôn trùng sông quạnh quẽ Đem theo chân hứng gửi cô Hằng.
Ngựa ơi hãy nghỉ chân cuồng khấu Cho thoả lòng ta nỗi khát khao Ta chẳng mò trăng như Lý Bạch Nhưng tìm thi hứng mất đêm nao…
Tình hoa thuở trước xô về đọng Ơi phiến gương vàng một tối nay. Ta lặng buông thân trời lảo đảo, Mơ hồ sông nước choáng men say…”
Cũng là người yêu thích thơ Đường, nên tôi hay tìm đọc những bài cổ thi qua bản dịch của các nhà thơ, dịch giả tên tuổi. Bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, tôi đã được đọc từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường qua bản dịch của Tản Đà, sau đó là những bản dịch Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng và một số người khác. Tuy nhiên bản dịch của Tản Đà hay và nhiều người biết hơn cả.
Nhưng gần đây tôi mới tìm được bản dịch của Vũ Hoàng Chương. Đọc xong, tôi lặng người, bởi lời thơ thoát, thoáng đạt giữ nguyên thể thơ Đường, nhưng vẫn kéo tâm trạng sầu nhớ nao nao đi đến tận cùng trong lòng người lữ khách. Qủa thật, bản dịch của Vũ Hoàng Chương tôi thích hơn so với bản dịch theo thể lục bát của Tản Đà. Với tôi, đây là tác phẩm (dịch) tuyệt bút của ông. Chúng ta đọc lại dịch phẩm cuả Tản Đà và của Vũ Hoàng Chương, để nhìn nhận so sánh:
“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ. Hạc vàng đi mất từ xưa, Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.
Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Tản Đà)
—
“Xưa hạc vàng bay vút bóng người, Đây Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi. Vàng tung cánh hạc đi đi mất, Trắng một màu mây vạn vạn đời.
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu, Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi. Gần xa chiều xuống đâu quê quán? Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!” (Vũ Hoàng Chương)
Nhát dao cắt đôi đất nước và cuộc di cư năm 1954 là bước ngoặt lớn nhất không chỉ cho riêng Vũ Hoàng Chương, mà cho cả dân tộc. Ông thực sự hoang mang trước sự bi đát ấy. Và với ông, lúc này bàn đèn kho’i thuốc dường như không còn là nơi trú ngụ cho thể xác lẫn tâm hồn. Sự dằn vặt làm ông thao thức và luôn tự hỏi về thân phận con người trong loạn ly.
Bài Nguyện Cầu của Vũ Hoàng Chương ra đời trong hoàn cảnh, tâm trạng như vậy. Bài thơ mang hương vị thiền ở thể lục bát. Khi viết bài này, dường như thi sĩ muốn bỏ cái tham, sân, si của con người để đến gần nơi cửa phật. Cả bài thơ như một câu hỏi tu từ: “Ta còn để lại gì không?” nhằm răn mình, răn đời vậy. Đây là bài thơ không chỉ hay nhất trong thi tập Rừng Phong, mà còn là trong số (ít) những bài hay nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông:
“Ta còn để lại gì không? Kìa non đá lở, này sông cát bồi. Lang thang từ độ luân hồi U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương Ta van cát bụi bên đường Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này.
Ðể ta tròn một kiếp say Cao xanh liều một cánh tay níu trời. Nói chi thua được với đời Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu.
Tâm hương đốt nén linh sầu Nhớ quê dằng dặc, ta cầu đó thôi! Ðêm nào ta trở về ngôi Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian.
Một phen đã nín cung đàn Nghĩ chi còn mất hơi tàn thanh âm.”
Trong cái xã hội nhá nhem điên loạn và sự bấp bênh của thân phận con người, tết Bính thìn 1976, Vũ Hoàng Chương trải lòng mình vào Vịnh Bức Tranh Gà Lợn. Đây là bài thơ hay và lạ. Lạ bởi có lẽ ít ai dám đưa tục ngữ, thành ngữ vào trong thơ như ông một cách dân dã và châm biếm như vậy. Và bài thơ có tính thời sự cao, dễ thuộc đi vào mọi tầng lớp trong xã hội và lan truyền nhanh ở trong nước cũng như ra hải ngoại.
“Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành Gà lợn, om sòm rối bức tranh Rằng vách có tai, thơ có hoạ Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh
Mắt gà huynh đệ bao lần quáng Lòng lợn âm dương một tấc thành Cục tác nữa chi, ngừng ủn ỉn Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh“
Tôi không rõ bài thất ngôn tứ tuyệt: Dấu Hỏi Vây Quanh Kiếp Người, được thi sĩ Vũ Hoàng sáng tác từ khi nào? Đây là bài thơ có tính thiền triết, đầy hình tượng ám ảnh, cho ta cảm giác rờn rợn khi đọc. Cả kiếp người là một câu hỏi, một câu hỏi trong vòng luẩn quẩn, đến lúc nhắm mắt xuôi tay không lời giải đáp, mà chỉ có tiếng vọng lại khi nắp quan tài sập lại:
“Dấu hỏi vây quanh trọn kiếp người Sên bò nát óc máu thầm rơi Chiều nay một dấu than buông dứt Đinh đóng vào săng tiếng trả lời.”
Bài thơ này, tiếng vọng kia, phải chăng là câu kết hay lời khép lại của chính cuộc đời thi sĩ Vũ Hoàng Chương?
Trích theo bài của tác giả Đỗ Trường
Bạn đang xem bài viết Hành Trình Thơ Thi Hoàng trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!