Xem Nhiều 3/2023 #️ Hình Tượng Con Rồng Trong Truyện Cổ Dân Gian Ê Đê, M’Nông # Top 7 Trend | Anhngucongdong.com

Xem Nhiều 3/2023 # Hình Tượng Con Rồng Trong Truyện Cổ Dân Gian Ê Đê, M’Nông # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Hình Tượng Con Rồng Trong Truyện Cổ Dân Gian Ê Đê, M’Nông mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Truyện “Sự tích bốn mùa xuân – hạ – thu – đông” của dân tộc Êđê được thể hiện khá sinh động. Truyện kể rằng trên đường đi tìm mùa xuân, các bạn của cóc tía gồm: gấu, cọp, khỉ, thỏ, …đi đến xứ sở mùa hạ thì gặp bác rồng râu tóc bạc phơ đang làm việc hăng say phun nước dưới sông lên làm mát cho đồng ruộng cỏ cây. Thấy các bạn của cóc tía đến, bác rồng tiếp đãi nhiều món ăn quý của xứ sở mùa hạ. Sau đó bác rồng bảo các bạn của cóc tía ngồi lên lưng mình và bay đến xử sở mùa xuân. Nơi đây cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, hoa muôn sắc đua nở. Nàng xuân cùng các bạn xứ sở mùa xuân hân hoan chào đón bác rồng và các bạn của cóc tía. Qua nội dung câu chuyện này, hình tượng con rồng đã được dân gian hóa, trở thành người bạn gần gũi của muôn loài, giúp họ tìm được xứ sở mùa xuân tươi đẹp.

Trong truyện ” Sự tích hồ Lak “, có đoạn mô tả con rồng đánh nhau với con lươn suốt bảy ngày đêm mà không phân thắng bại làm cho hồ nước của chàng Lak dài rộng bao la giống hình con rồng uốn lượn. Nhờ vậy mà dân buôn khắp mọi vùng có nước để dùng khỏi phải sợ hạn hán thiếu nước như những năm trước kia. Câu chuyện đơn giản thế, nhưng người dân các dân tộc sống ở nơi đây vẫn luôn nhớ đến chàng Lak, nhớ đến hình tượng con rồng đánh nhau với con lươn để tạo nên hồ nước cứu sống mọi buôn làng.

Truyện ” Thần rồng và thanh gươm thần kỳ” và ” Thần rồng và anh em nhà Y Rah – Y Rin”, các nghệ nhân dân gian Êđê đã mô tả con rồng là một trong những vị thần của núi rừng Tây Nguyên luôn luôn hiện ra để giúp đỡ người nghèo khổ. Chính vì vậy mà cậu bé Y Jar và anh em Y Rah, Y Rin đã được thần rồng tặng hanh gươm quý và bày cách bảo vệ nguồn nước để trồng lúa, chăn nuôi, trở thành người giàu có nhất các buôn làng Tây Nguyên. Cũng từ đó, hằng năm việc cúng bến nước của đồng bào Êđê và các dân tộc khác trong vùng đã trở thành phong tục tập quán của các buôn làng Tây Nguyên.

Còn rất nhiều những câu chuyện của dân tộc Êđê, M’nông về hình tượng con rồng… Có thể khẳng định con rồng trong truyện cổ Êđê, M’nông là hình tượng cao đẹp, biểu hiện sức mạnh, hoài bão và ước mơ lý tưởng về một xã hội tươi đẹp. Đây là hình tượng gần gũi với tư duy của người Việt trong văn hóa tâm linh và văn hóa nghệ thuật. Nó chính là bản sắc văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt Nam.

Minh Ngọc

Hình Tượng Ông Tơ Bà Nguyệt Trong Văn Hóa Dân Gian

1. Từ trong điển tích, giai thoại Trung Quốc

Việt Nam tự điển, quyển hạ của Lê Văn Đức, trang 254, phần Phụ lục Tục ngữ – Thành ngữ – điển tích ghi: Nguyệt hạ lão nhân, ông già ngồi dưới bóng trăng, tức Ông Tơ, vì tiên se duyên cho người đời.

Lý Phục đời Đường kể trong quyển Tục U Quái Lục – Định Hôn Điếm rằng: Đời nhà Đường (618 – 907) có chàng nho sĩ tên Vi Cố, học giỏi, thi phú tài danh. Một hôm du học đến Đông Đô, giữa đêm trăng sáng, chàng thơ thẩn dạo chơi bỗng nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, ngồi nhìn vào quyển sổ to, tay se tơ đỏ. Vi Cố lấy làm lạ đến gần, hỏi:

– Chẳng hay lão trượng ở đâu đến đây mà ngồi một mình giữa đêm khuya canh vắng? Còn sách này là sách chi và tơ đỏ này, cụ se làm gì?

Cụ già đáp: Ta là Nguyệt Lão, xem sổ định hôn của dân gian. Còn chỉ ta đương se là duyên của vợ chồng do tơ này buộc lại.

Vi Cố mừng rỡ, xin cụ cho biết duyên của mình. Cụ già mỉm cười nói: Số duyên của nhà ngươi là con bé 3 tuổi của mụ ăn mày, thường ăn xin ở chợ Đông Đô.

Vi Cố nghe, thở dài không nói nên lời. Cụ già biết ý, bảo: Đó là duyên trời định. Già này không thay đổi được. Mà nhà ngươi muốn tránh cũng chẳng xong.

Vi Cố buồn bã, từ giã lủi thủi đi về. Sáng hôm sau, Vi Cố ra chợ Đông Đô, quả thực trông thấy một mụ ăn mày, tay ẵm đứa bé gái 3 tuổi, xin ăn ở góc chợ. Cố bực tức, mướn một gã lưu manh đâm chết được đứa bé kia, sẽ thưởng nhiều tiền. Tên lưu manh vâng lời, cầm dao xông đến, chém một nhát vào đầu đứa bé. Mụ ăn mày hốt hoảng, ôm con chạy.

Tên lưu manh tưởng đứa bé đã chết, sợ người bắt nên bỏ trốn. Mười lăm năm sau, Vi Cố đi thi đỗ Thám Hoa. Vào triều bái yết nhà vua xong, Cố ra lễ quan Tể Tướng họ Chu vốn làm chủ khảo khoa thi, thấy quan tân khoa chưa vợ, quan Tể Tướng liền gả con gái cho. Vi Cố mừng rỡ, bái tạ. Đến khi nhập phòng, Cố nhìn thấy vợ mỹ miều, đẹp đẽ lấy làm hớn hở, vừa ý. Chợt nhìn ở sau ót có một vết thẹo, chàng lấy làm lạ hỏi. Nàng thành thật kể rõ thân thế mình vốn là con của mụ ăn mày, 15 năm về trước bị tên lưu manh ác độc, không biết có thâm thù gì lại chém nàng. May mẹ nàng nhanh chân chạy khỏi, nàng chỉ bị thương sau ót. Mẹ chết, nàng chịu cảnh bơ vơ, may Tể Tướng gặp giữa đường, vì không con nên đem về nuôi xem như máu huyết.

Nghe vợ thuật, Vi Cố thở dài, lẩm bẩm: Thật là duyên trời định!

Một dị bản khác, theo Thần tiên truyện, thời Nguyên Hòa nhà Đường rất thái bình, có quan đại thần Chung Thôi. Quý tử của Chung Thôi là Chung Hạo văn hay chữ tốt. Chung Hạo thường theo cha đi săn bắn. Một hôm, do mãi đuổi theo con thỏ, Chung Hạo lạc vào rừng sâu, quanh co cả ngày không tìm được lối ra. Đêm xuống lạnh giữa rừng hoang, dưới ánh trăng Hạo nghe tiếng suối róc rách, chàng lần đến tìm nước uống. Chàng thấy bên bờ suối, trong hang đá, một bà lão đang ngồi se chỉ, màu chỉ đỏ thắm. Chung Hạo khẽ bước lại gần, thưa:

– Tiểu nhân đi săn, bị lạc đường xin hỏi nơi đây là đâu, sao lão bà lại ngồi một mình se chỉ đỏ?

– Đây là động tiên, ta đang ngồi se duyên cho những đôi tình yêu nhau dưới trần gian. Chỉ này là dây tơ hồng.

Ta se nhiều hay ít thì trai gái cũng theo đó mà thương yêu nhau nhiều hay ít. Ta muốn đôi trai gái nào nên vợ chồng thì ắt chúng sẽ kết duyên, không xa lìa nhau được.

– Vậy thưa lão bà có thể cho tiểu nhân biết sau này sẽ được sánh duyên cùng ai?

Lão bà đưa mắt nhìn vào bên trong động. Ở đó có một ông lão đang cúi gầm trên một cuốn sách dày cộm.

– Kìa là Ông Tơ, công tử muốn biết thì hỏi ông ấy!

Ông lão hỏi tên tuổi Chung Hạo rồi lật từng trang sách ra tra cứu:

– Sau này công tử sẽ được se duyên với Tố Lan, con gái một mụ ăn mày ở chợ Đông, gần kinh thành.

Lão ông chưa dứt lời, Chung Hạo đã đùng đùng nổi giận. Đường đường là một quí tử của quan đại thần, tài nghệ, văn hay chữ tốt khó ai bì kịp mà sau này lại kết duyên cùng vơi con gái mụ ăn mày. Tức tối, chàng quay bước đi, không một lời chào. Ông Tơ vẫn chúi đầu trong sổ bộ, Bà Nguyệt vẫn bình thản se chỉ hồng.

Chung Hạo bỏ chạy thụt mạng. May mắn, sáng sớm mai, quân lính tìm gặp. Trở về dinh, sau ngày đó, chàng đâm ra biếng ăn lười nói. Lời tiên tri của Ông Tơ ám ảnh, Chung Hạo tìm xuống chợ Đông. Vừa đến đầu chợ, đã gặp ngay một đứa bé gái chừng 9 tuổi mặt mày lem luốc, áo quần rách bươm, dắt theo một bà ăn xin mù lòa. Dò hỏi thì biết được tên của con bé là Tố Lan, Chung Hạo thất kinh, bỏ chạy. Trở về nhà, Hạo quyết cải mệnh trời để không phải làm chồng một con bé ăn mày bẩn thỉu.

Một buổi sáng Chung Hạo lại tìm xuống chợ, ném đã vỡ đầu cô bé ăn xin nọ. Thời gian sau, mọi người cho biết con bé bị thương tích quá nặng, e không sống được; và bà lão mù đi đâu cũng không ai rõ.

Bảy năm sau, Chung Hạo đã nên danh phận. Nghe tin thiên hạ bàn tán ở huyện Trúc Giang có con gái quan Thái úy nổi danh là một giai nhân sắc nước hương trời, tên là Thảo Nương. Vương Tôn công tử gần xa, ngày đêm đến cầu thân, nhưng chưa ai được kén chọn. Chung Hạo tìm đến, thuê một phòng trọ trước phủ đường. Mới một lần tình cờ nhìn thấy Thảo Nương, Chung Hạo xao động. Chàng vội quay trở về nhà, xin phụ thân tính đường mai mối. Hai gia đình là môn đăng hộ đối, nên việc kết hôn sớm viên thành. Đôi uyên ương nên vợ chồng yêu nhau thắm thiết.

Một hôm, Chung Hạo âu yếm gội đầu cho Thảo Nương. Thấy vợ mình có một cái thẹo lớn đàng sau gáy, chàng hỏi nguyên nhân. Và nàng kể:

– Nguyên, thiếp là con một bà ăn mày mù ở chợ Đông. Lúc nhỏ, một hôm đang dắt mẹ đi ăn xin, không hiểu sao lại có một kẻ xấu cầm đá ném vào đầu. thiếp, thương tích nặng, tưởng đã lìa đời, may nhờ bà con tận tình cứu chữa. Sau đó, được quan Thái úy có lòng từ tâm, lại hiếm muộn , nên đem hai mẹ con thiếp về nuôi dưỡng. Thiếp được nghĩa phụ dạy dỗ, cho ăn học. Mẹ thiếp qua đời. Thiếp được giúp việc bút nghiên cho nghĩa phụ nơi công đường, đã rất nhiều đám đến dạm hỏi, nhưng đều bị từ chối. Lạ thay, bên nhà chàng vừa ngỏ, thì dưỡng phụ bằng lòng ngay. Chúng ta đẹp duyên ngày nay chắc là có nợ có duyên, …

– Không, Thảo Nương nàng ơi, nếu là định mệnh thì nàng phải là …Tố Lan.

Tố Lan là tên của thiếp lúc còn bé. Sau khi được đưa về dinh, nghĩa phụ đã đổi tên này. Bấy giờ, Hạo mới biết Ông Tơ đã se duyên thì không thể khác được, chàng nhìn Tố Lan và khẽ ngâm:

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng

Nguyên thuỷ, cuộc hôn lễ nào cũng có nghi thức cột chỉ đỏ, nhưng đến đời Tống lại biến thành đội khăn đỏ. Trong hôn lễ, cặp dâu rễ đội chung chiếc khăn đỏ đi vào phòng tân hôn. Tập tục này hàm ý nói: Đồng tâm tương kết, bạch thủ giai lão (đồng tâm kết hợp nhau, đến lúc già đầu bạc). Hiện nay, ở một vài địa phương ở Trung Quốc vẫn còn duy trì tập tục này.

Tương truyền, ngày rằm tháng tám âm lịch là ngày sinh nhật của Nguyệt Hạ Lão Nhân. Vào ngày ấy, có rất nhiều trai đơn gái chiếc đến Miếu Thờ của Nguyệt Lão để cầu cho được mối lương duyên. Cũng có rất nhiều người được thỏa nguyện nên mang “bánh mừng”, “đường mừng” đến cúng tế, trả lễ.

Từ hình tượng Ông già dưới trăng có thành ngữ Nguyệt Hạ Lão Nhân, còn Nguyệt Lão, là cách nói tắt của thành ngữ này. Và những chữ: Tơ hồng, Chỉ hồng để chỉ việc nhân duyên vợ chồng. Những chữ Ông Tơ, Nguyệt Lão, Trăng già, … cũng do điển này mà ra.

2. Đến Ông Tơ Bà Nguyệt văn hoá dân gian

Trong các nghi thức đám cưới của người Việt xưa đều có nghi lễ tế Tơ Hồng còn gọi tế thần Tình duyên. Nguyệt lão là vị thần Tình duyên theo tích Vi Cố đời Đường (Trung Quốc) mà chúng tôi đã kể trên. Theo đúng ý nghĩa tục lệ thì tế thần Tình duyên phải tổ chức tại phòng hoa chúc vào tối tân hôn. Về sau người ta bày ra tục lệ tế thần Tình duyên tại sân nhà. Nhất Thanh trong Đất lề quê thói viết: Khi xưa tế Tơ Hồng ngay lúc sau khi đưa dâu về đến nhà, trước khi yết lễ tổ họ, lễ yết gia tiên và chào mừng ông bà cha mẹ họ hàng, ý rằng khi cô gái bước chân về đến nhà người ta là nên vợ chồng, lương duyên do ông Tơ chấp mối se lại, điều trước tiên là nghĩ đến công đức của Ông, tế lễ để ông chứng kiến việc hôn phối đã thành đồng thời tạ ơn Ông.

Sau đó, đôi trai gái vào lạy 4 lạy, 3 xá, rồi chồng lấy rượu mời vợ. Vợ bưng rượu mời chồng. Uống xong, cả hai lấy hai cái chén úp lại, gọi là giao bôi hợp cẩn.

2.2. Ông Tơ Bà Nguyệt trong triết lý âm dương

Trong công trình “Tìm về bản sắc vắn hoá Việt Nam”, Trần Ngọc Thêm cho rằng: Ở Việt Nam mọi thứ thường đi đôi theo nguyên tắc âm dương hài hoá Ông đồng bà cốt, đồng Cô đồng Cậu, đồng Đức Ông, đồng Đức Bà (…), ngay cả khái niệm vay mượn đơn độc, khi nhập vào Việt Nam cũng được nhân đôi thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối là một “ông Tơ Hồng”, thì vào Việt Nam biến thành “Ông Tơ Bà Nguyệt” (trang 112).

2.3. Hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt trong ca dao

Lẽ tất nhiên, là hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt, Nguyệt Lão, Tơ Hồng gắn liền với tình yêu, hôn nhân và nỗi lòng khát khao giao hoà của tuổi trẻ. Nó biểu hiện đầy đủ những cung bậc tình yêu.

Mới quen nhau, ướm lời, hỏi thử để giao tình, họ mượn hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt “nói chuyện đò đưa”:

Ông Tơ đành vấn Bà Nguyệt đành vương

Phụ mẫu đành gả, hỏi nàng thương không nàng?

Cô gái đáp lại cũng không kém phần sắc sảo:

Vì Ông Tơ Nguyệt đã khuyên lấy chàng

Từ đó, chàng trai chủ động hơn:

Nhờ Ông Tơ Bà Nguyệt kết vợ chồng trăm năm

Hay pha đôi chút hài hước, lém lĩnh, bịa mà như thật:

Ông Tơ Hồng nói nhỏ anh nghe

Để xong mùa cấy ổng sẽ se cho hai đứa mình

Phần cô gái thì mộng cho đến ngày nào đó có được “nửa kia” như tâm nguyện, rồi sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường cho tròn bổn phận:

Hai là ông Bát, ông Đô cũng vừa

Giả tên Bà Nguyệt, Ông Tơ

Sớm đi cầu Thước, tối mơ mộng Hùng

Theo quan niệm dân gian, hôn nhân tốt đẹp không thể thiếu được bàn tay se dây của Nguyệt Lão:

Sớm cùng phận đẹp duyên ưa

Ông Tơ Bà Nguyệt dắt đưa nên gần

Nó đã như duyên số từ kiếp trước, giống như tích đẹp thuở nào:

Thương sao thấy mặt thương liền

Cũng như Ông Tơ Bà Nguyệt nối duyên mình thuở xưa

Yêu nhau, ai chẳng muốn mãi mãi ở bên nhau:

Ông Tơ chỉ quyết se mình với ta

Cũng có khi dân gian dí dỏm chuyện “vái van”. Nhưng điều quan trọng nhất theo họ là mong muốn “tơ duyên” được bền chặt trong bất cứ cảnh ngộ khó khăn nào, thế thôi:

Vái Ông Tơ một chầu bánh tráng

Vái Bà Nguyệt một tán đường đinh

Đôi ta gá nghĩa chung tình

Dầu ăn cơm quán ngủ đình cũng ưng

Trong tình yêu lứa đôi, lời thề nguyền chung thuỷ là một cung bậc đầy thú vị và dường như không thể thiếu. Ngoài lời minh sơn hải thệ, hình tượng Ông Tơ Bà Nguyệt nhiều lúc cũng phải “có mặt” để chứng giám:

Lời nguyền chứng cớ có Ông Tơ Hồng

Thác thời mới dứt, sống không bỏ chàng

Ai nói chi chàng chớ có nghe

Ông Tơ Bà Nguyệt đã se ta rồi

Đến chừng dang dỡ, có trăm nghìn lý do khiến duyên nợ không thành, khi ấy, Ông Tơ, Bà Nguyệt phải chịu một phần trách nhiệm.

Có khi do tình cảm chủ quan của người trong cuộc:

Kìa khóm trúc nọ khóm mai

Ông Tơ Bà Nguyệt se hoài chẳng thương

Em không trách ông Tơ không phiền Bà Nguyệt

Trách phận mình sao thiệt long đong

Có khi do Ông Tơ chậm tay để lỗi … thời gian:

Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì

Ba năm chẳng xứng duyên hài

Nằm lăn xuống bệ lạy dài Ông Tơ

+ Trách Ông Tơ cùng Bà Nguyệt Lão

Se dây vào lại đảo dây ra

+ Vợ chồng cũng muốn vợ chồng đời

Trách Ông Tơ Bà Nguyệt se rời mối dây

+ Trách Ông Tơ ra tay hờ hững

Lúc se dây sao chẳng lựa ngày

Trước sao se mối tơ này làm chi

Cùng cấp độ ấy, nguyên nhân để hai người yêu nhau không được sống trọn đời bên nhau là bởi … Ông Tơ “lừa lọc”:

Ông Tơ Bà Nguyệt khéo lừa đôi ta

Người trong cuộc tìm gọi Ông Tơ để chất vấn:

Phải gặp Ông Tơ hỏi sơ cho biết

Gặp Bà Nguyệt gạn thiệt cho rành

Nợ duyên sớm hết cho đành dạ con

Tình nồng, nhưng duyên không thắm, đành phải hỏi Trời cao, hỏi mà như tự trả lời vậy:

Bực mình lên tận thiên cung

Đem Ông Nguyệt Lão xuống hỏi thăm vài lời

Nỡ lòng trêu ghẹo chi tôi,

Lênh đênh bèo nổi mây trôi một thì

Trong cuộc sống, không phải việc gì cũng như ý, nói chi là chuyện hoà hợp giữa hai tâm hồn. Chúng ta hãy nghe lời tự than, tự trách, trách mình nhiều, nhưng cũng trách cả tình cảnh éo le, chẳng được ai đoái hoài, thương cảm:

Lên cậy Ông Tơ, Ông Tơ bận cuốc đất đào đá;

Về nhờ Bà Nguyệt, Bà Nguyệt mắc chiếc má (mạ) cấy ruộng bến đình;

Không có ai vô se dây chắp mối cho hai đứa mình thành đôi

Gặp cảnh đồng sàng dị mộng, trái nợ, lỡ duyên, không biết trách ai, thôi thì … trách người se duyên:

Rồi đây ta trách kiện Ông Tơ

Nơi thương không vấn, vấn vơ nơi nào.

Ông Tơ chết tiệt, Bà Nguyệt chết toi

Se sao lẫn lộn, se tôi lấy nàng

Uất ức, đau đớn, không còn “lạy van”, “trách móc” nữa, người trong cuộc đã ra tay:

Muốn chôn Bà Nguyệt, muốn vùi Ông Tơ

Giận người làm mối vẩn vơ

Duyên tôi đã lỗi Ông Tơ lại lầm

Bắt tay Ông Tơ mà bơ mà bớp.

Bắt lấy Bà Nguyệt mà cột cội cau;

Cứ se khắp thiên hạ đâu đâu,

Bỏ hai đứa mình lận đận, ruột héo gan xàu không se.

Quá đau đơn, quyết phải hành động:

Bắt Ông Tơ mà đánh ba hèo,

Duyên người se cả, phận em đói nghèo không se.

Lí do bị “đánh ba hèo” là vì Ông Tơ không chịu se duyên cho cô gái đói nghèo. Trong lúc những người khác (không đói nghèo như cô ta), thì ông se rất tốt.

Nguyên nhân đánh Ông Tơ vì se duyên muộn hoặc không se mà chưa rõ vì đâu, xem ra không hợp lí bằng thái độ coi khinh người nghèo đói trong xã hội vốn chuộng cảnh “môn đăng hộ đối” trong hôn nhân. Đó là điều người thấp cổ bé miệng muốn thốt lên để … liệu trời cao có thấu chăng?

Bắt Ông Tơ mà cho ba đấm,

Bắt Bà Nguyệt đánh bốn mươi chín cái hèo;

Sự “trừng phạt” dành cho “Nguyệt lão” cũng được biện luận đầy đủ, song dường như đối tượng hướng đến không phải chỉ một mình người làm mối mai, mà nó hướng đến nhiều người khác nữa:

Hỏi thăm Bà Nguyệt có nhà hay không

Thế gian chuộng của, chuộng công,

Nào ai có chuộng người không bao giờ

Ông Tơ ông buộc ông Trời biểu không

Những câu ca vừa nêu là cảnh ngộ của phận “gái nhà nghèo”, thì đây là cảnh ngộ của một chàng trai độc thân, cũng chẳng phải giàu sang, quyền quý, Ông Tơ Bà Nguyệt bị đem ra hài tội :

Bắt Ông Tơ đánh sơ vài chục,

Bắt Bà Nguyệt nếm mấy mươi hèo.

Người ta năm bảy vợ theo,

Còn tôi đơn chiếc như mèo cụt đuôi!

Nguyền rửa để hả dạ hả lòng, duyên phận lỡ làng, biết làm sao hơn được!

Ông Tơ chết tiệt Bà Nguyệt chết trùng tang

Ông thầy bói chết giữa đàng

Anh với em cách xã lạ làng

Muốn trao nhân nghĩa ngỡ ngàng khó trao

Tại cha mẹ đứt đường Tơ Nguyệt

Khuyên em đừng trực tiết uống công

Cuối cùng, họ phủ nhận luôn vai trò của “thần Tình yêu”:

Trăm năm trăm tuổi trăm chồng

Đẹp duyên thì lấy chẳng ông Tơ Hồng nào se!

Ông Tơ Bà Nguyệt là một hình tượng độc đáo trong tín ngưỡng của người bình dân. Từ trong điển tích của văn học cổ điển Trung Quốc, hình tượng ấy đã đi vào đời sống tâm hồn của người dân Việt vừa trở nên gần gũi thân thiết qua những vần ca dao với tất cả những cấp độ của tình yêu lứa đôi, vừa trở thành một phong tục truyền từ đời này sang đời khác.

Dù là thần tiên (hay người bậc trên) mà làm việc chung không công bằng, phân biệt đối xử thì cũng bị hình phạt, dù đó chỉ là lời nói của người dân lao động nhưng xem ra không phải là không “sức nặng”, không có giá trị.

Từ Nguyệt Lão Hạ Nhân đến thành ngữ Ông Tơ Bà Nguyệt, vừa là sự sáng tạo trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, độc đáo hơn nó còn gắn liền với một tín ngưỡng: triết lý âm dương hoà hợp mà chúng tôi đã dẫn ý ở trên. Vì thế, khi tiếp nhận hình tưởng này tưởng cũng không nên máy móc, cực đoan, … có thể mới thấy được hết cái hay, cái đẹp của những người gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, vậy!.

Theo http://www.vanchuongviet.org/

Sự Khác Nhau Giữa Hai Khái Niệm Truyện Cổ Dân Gian Và Truyện Cổ Tích

2. Từ trong các cụm từ truyện dân gian, truyện cổ dân gian, truyện cổ tích với từtrong những danh từ được dùng để chỉ một số thể loại của văn chương viết như: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài v.v.. có chung nguồn gốc. Từ điển Hán – Việt của Thiều Chửu cho biết: trong tiếng Hán, chữ có ba cách đọc và ý nghĩa khác nhau như sau: 1) đọc truyền có nghĩa đem của người này mà trao cho kẻ kia như truyền vị – truyền ngôi, truyền đạo. Truyền còn có nghĩa sai người bảo như truyền kiến – truyền cho vào yết kiến; 2) đọc truyện vừa có nghĩa dạy bảo như Xuân thu Tả thị truyện – họ Tả giải nghĩa kinh Xuân thu để dạy bảo người, vừa có nghĩa là truyện kí như Liệt nữ truyện – truyện các gái hiền; 3) đọc truyến có nghĩa nhà trạm, nhà để đưa kẻ đi, đón kẻ lại cũng gọi là truyến [4, tr.30]. Từ truyện trong tiếng Pháp là conte, tiếng Anh là tale, story.

Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, truyện là danh từ có hai nét nghĩa: 1) tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện thông qua lời kể chuyện cuả nhà văn; 2) (thường dùng đi đôi với kinh), sách giải thích kinh nghĩa do các nhà triết học của Trung Quốc thời cổ viết [8, tr.1018]. Từ điển tiếng Việt của Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm cũng cho rằng từ truyện có 2 nét nghĩa và giải thích: 1) việc có lớp lang, sự tích hoặc tưởng tượng được kể lại: truyện cổ tích; 2) sách về Nho giáo: Tứ truyện [9, tr.1414]. Từ điển Việt – Hán của Lâm Hoà Chiếm, Lý Thị Xuân Các và Xuân Huy viết truyện là tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện, sự việc [3, tr.973].

Trong Từ điển văn học, Nguyễn Xuân viết: Truyện thuộc loại tự sự – có hai phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp nghệ thuật chính là kể. Truyện thừa nhận vai trò rộng rãi của hư cấu và tưởng tượng. Tuỳ theo nội dung phản ánh, dung lượng, chủ thể sáng tác cụ thể mà truyện được chia thành nhiều loại: truyện dân gian, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (cũng gọi là tiểu thuyết), truyện nôm, truyện nôm khuyết danh [7, tr.450].

Như vậy, cách giải thích ý nghĩa từ truyện của các cuốn từ điển là tương đối thống nhất. Nếu có điểm khác nhau thì hoàn toàn không phải là nhằm loại trừ nhau mà đó là sự bổ sung lẫn nhau để giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa của từ truyện. Cần thấy rằng, khi truyện trở thành một thuật ngữ văn học thì nó được sử dụng với ý nghĩa khá phong phú, đa dạng và phức tạp. Riêng lĩnh vực văn chương viết, theo Lại Nguyên Ân, truyện là tác phẩm tự sự. Hàm nghĩa của thuật ngữ này khác nhau trong văn học trung đại và hiện đại.

Ở văn học trung đại Việt , ” truyện“ là một thuật ngữ mà văn học mượn từ sử học (” truyện“ là thể loại trước thuật của sử gia, chép tiểu sử, hành trạng, công tích của các nhân vật lịch sử). Tác phẩm thể truyện có thể được viết bằng thơ (ví dụ truyện thơ nôm) hoặc văn xuôi (ví dụ loại truyện truyền kì, truyện chương hồi viết bằng chữ Hán).

Ở văn học hiện đại, ” truyện“ là khái niệm không thật xác định. Một mặt nó vẫn được dùng để chỉ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung (bao gồm cả truyện kí, tiểu thuyết), mặt khác lại có lối dùng nó như thuật ngữ chỉ dung lượng tác phẩm tự sự (” truyện dài“, ” truyện vừa“, ” truyện ngắn“).

Khái niệm ” truyện“ thường lẫn lộn phức tạp với khái niệm ” tiểu thuyết“. Trong thực chất thể loại, có tác phẩm ” truyện“ là tiểu thuyết và ngược lại. Tuy vậy, ở văn học hiện đại, các nguyên lí của tiểu thuyết chi phối hầu hết các thể loại nên sự phân biệt bản chất thể loại ở tác phẩm cụ thể là không dễ. Có thể nói phạm vi ” truyện“ rộng hơn phạm vi ” tiểu thuyết“. Ở truyện còn giữ lại nhiều hình thức thể loại khác nhau, đặc biệt là giữ lại những nét thuộc sử thi ” tiền tiểu thuyết“. Ví dụ loại truyện mang tính tiểu sử về nhân vật có thực, dù được ” tiểu thuyết hoá“ ở mức nhất định; vì nó thiên hẳn về việc kể lại một cuộc đời theo các mốc niên biểu. Loại truyện kể lại các sự kiện (chiến đấu, sản xuất…) cũng vậy. Sự phát triển và thể hiện hàm nghĩa nghệ thuật của tác phẩm không thực hiện ở vận động cốt truyện. ở truyện, bản thân việc mở rộng cái thế giới mà nhân vật đi vào, theo dòng chảy của một cuộc đời, hoặc sự thay đổi các ấn tượng về những cảnh và người mà nhân vật xúc tiếp – đã là mục đích của trần thuật, của sự thể hiện nghệ thuật. ở truyện, ” chất giọng“ của tác giả (hoặc nhân vật kể chuyện) có vai trò lớn [1, tr.349 -350].

Ở nước ta, từ xưa, trong dân gian chưa có các từ và cụm từ: truyện, truyện cổ dân gian và truyện cổ tích. Người bình dân không quen nói truyện mà thường nói chuyện (chuyện Tấm Cám, chuyện Thạch Sanh, Lý Thông, chuyện Nàng út v.v.); không quen nói truyện cổ tích mà thường nói chuyện đời xưa; không nói truyện cổ dân gian mà chỉ nói chuyện đời xưa. Khi bàn về sự xuất hiện hai thuật ngữ ca dao và dân ca, Nguyễn Xuân Kính cho rằng: Hiện nay, đối với giới nghiên cứu, ca dao và dân ca là những thuật ngữ quen thuộc. Trước kia, trong dân gian, những từ đó chưa có. Để chỉ các hoạt động văn nghệ dân gian, người bình dân sử dụng những từ khác. Đó là các động từ ca, hò, ví, hát, lí, ngâm, kể. Căn cứ vào những tài liệu hiện có, chúng ta biết rằng từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XX, cùng với sự xuất hiện các công trình sưu tầm, biên soạn ca dao của nhà Nho, hai tên gọi phong dao, ca dao cũng chính thức ra đời. So với thuật ngữ ca dao, thuật ngữ dân ca xuất hiện muộn hơn. Phải đến những năm 50 của thế kỉ XX, thuật ngữ này mới chính thức được sử dụng với sự xuất hiện của cuốn sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam(Vũ Ngọc Phan) [6, tr.72 – 78]. Quá trình xuất hiện các thuật ngữ truyện, truyện cổ dân gian, truyện cổ tích giống với quá trình xuất hiện hai thuật ngữ ca dao và dân ca.

Một trong những đặc điểm lớn nhất trong trước tác của nhà Nho thời phong kiến là hiện tượng văn sử bất phân. Trong sách vở của họ, tính chất sử học và tính chất văn học nhiều khi không được phân biệt một cách rạch ròi. Cho dù vậy, khi phân loại trước tác của nhà Nho, một tác phẩm cụ thể bao giờ cũng thuộc về một loại nhất định. Giả sử, ở một khía cạnh nào đó, các cuốn sách: Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lĩnh chích quái có tính chất lịch sử, nhưng không vì thế mà xếp chúng vào phạm vi công trình lịch sử. Các cuốn sách ấy thuộc và chỉ thuộc về lĩnh vực sách văn học. Tương tự như vậy, cho dù Đại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục tính chất văn học biểu hiện khá rõ, nhưng chưa thấy ai gọi đây là hai tác phẩm văn học hay hai công trình nghiên cứu văn học bao giờ! Từ trước đến nay, người ta chỉ xếp chúng vào lĩnh vực công trình lịch sử. Từ đó, ta có thể nói rằng, từ truyện với tính chất là một thuật ngữ văn học đã được sử dụng trong sách vở của nhà Nho khoảng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII mà Báo cực truyện – một cuốn sách thuộc lĩnh vực văn học là minh chứng cụ thể. Và từ truyện trong sách vở của nhà Nho tương đương với chữ chuyện trong dân gian.

3. Tiếp sau quá trình từ truyện trở thành một thuật ngữ văn học là sự ra đời thuật ngữ truyện cổ dân gian. Quá trình ra đời của thuật ngữ này gồm hai bước: bước thứ nhất là sự xuất hiện các danh từ truyện cổ tích và truyện cổ. Theo Chu Xuân Diên, một cuốn sách chữ Nôm in tại Hà Nội năm 1871 có tên là Ngọc Hoa cổ tích truyện. Như vậy, danh từ truyện cổ tích được dùng ở Việt có lẽ muộn nhất cũng là từ thế kỉ XIX [5, tr.231]. Ngoài ra, các danh từ truyện cổ, truyện cổ tích còn được nhận diện tương đối rõ nét khi các công trình sưu tầm chuyện đời xưa, chủ yếu là của tầng lớp trí thức Tây học và các học giả phương Tây xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX như Chuyện giải buồn (1885) của Huỳnh Tịnh Của, Chuyện đời xưa (1886) củaTrương Vĩnh Ký; Contes et legendes annamites (1886) của Landes, Bàn về truyện cổ An Nam ta (1921) của Đỗ Hào Đình; Truyện cổ tích, I (1928) của Lưu Văn Thuận; Đông Tây ngụ ngôn (1927), Truyện cổ nước Nam (1932 -1934) của Nguyễn Văn Ngọc; Chuyện đời xưa (1930) của Phạm Văn Thỉnhv.v; bước thứ hai, trên cơ sở mở rộng ý nghĩa của khái niệm truyện cổ tích hay làm rõ nghĩa hơn nữa khái niệm truyện cổ, thuật ngữ truyện cổ dân gian ra đời. Bước thứ hai của quá trình ra đời thuật ngữ truyện cổ dân gian nếu được hoàn thiện, có sớm, thì cũng phải từ những năm 50 của thế kỉ XX trở về sau, khi khái niệm văn học dân gian xuất hiện. Và khái niệm truyện cổ dân gian trong sách vở của giới nghiên cứu văn học dân gian tương đương với cụm từ chuyện đời xưa trong dân gian, tương đương với các danh từ conte populaire (tiếng Pháp), folktale (tiếng Anh).

Trong các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian ở nước ta, nhiều khi các khái niệm truyện cổ, truyện dân gian, truyện cổ dân gian và truyện cổ tích được hiểu và sử dụng hoàn toàn như nhau. Thực ra, bốn khái niệm này không hoàn toàn giống nhau.

Theo nghĩa thông thường, truyện cổ là nói tắt của cách nói đầy đủ truyện cổ dân gian. Truyện cổ dân gian là một khái niệm có ý nghĩa khái quát, nó bao gồm hết thảy các loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại [2, tr.39]. Truyện dân gian và truyện cổ dân gian giống nhau nhưng không đồng nhất, giữa chúng vẫn có nét khác nhau và chính nét khác nhau ấy đã xác định ý nghĩa rộng, hẹp của hai khái niệm. Nếu nói một cách đầy đủ thì khái niệm truyện dân gian là truyện kể dân gian, nó bao quát tất cả truyện dân gian của đời xưa và mới sáng tác ở đời nay, trong khi đó, khái niệm truyện cổ dân gian chỉ bao quát ở giới hạn những truyện dân gian đã được sáng tác từ đời xưa.

4. Như vậy, chỗ khác nhau giữa hai khái niệm truyện cổ tích và truyện cổ dân gian đã rõ. Truyện cổ dân gian là khái niệm được dùng để chỉ một bộ phận của văn học dân gian, bộ phận này gồm nhiều thể loại, trong đó có thể loại truyện cổ tích. Truyện cổ tích là khái niệm được dùng với hai ý nghĩa chủ yếu: 1) (cũng) để chỉ một bộ phận của văn học dân gian, trong trường hợp này, khái niệm truyện cổ tích tương đương với khái niệm truyện cổ dân gian; 2) để chỉ truyện cổ tích – một thể loại của bộ phận truyện cổ dân gian trong văn học dân gian. Để tránh lẫn lộn như đã từng xảy ra, ta chỉ nên sử dụng khái niệm truyện cổ tích trong trường hợp để chỉ riêng thể loại truyện cổ tích mà thôi.

Tài liệu tham khảo

1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

2. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

3. Lâm Hoà Chiêm – Lý Thị Xuân Các – Xuân Huy (1997), Từ điển Việt – Hán, Nxb. Trẻ TP. Hồ Chí Minh.

4. Thiều Chửu (2005), Hán – Việt từ điển, Nxb. Văn hoá – Thông tin, Hà Nội.

5. Chu Xuân Diên (2001), Văn hoá dân gian, mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

6. Nguyễn Xuân Kính (2004), Thi pháp ca dao, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

7. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, tập II, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

8.Hoàng Phê chủ biên (1994), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển học – Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

9. Minh Tân – Thanh Nghi – Xuân Lãm (1999), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Thanh Hoá.

Nguồn: chúng tôi 12/12/2006

Truyện Cười Dân Gian: Sợ Vỡ Mật.

Hai người cùng sợ vợ, lâu ngày thành bệnh, một người khạc ra đờm đỏ, một người khạc ra đờm xanh. Họ rủ nhau đi tìm thầy chạy chữa. Thầy bảo: – Ðờm đỏ, may còn hi vọng, chứ đờm xanh thì chịu, không sao chữa được nữa. Nên về mà lo hậu sự đi thôi. Cả hai cùng hỏi thầy: – Sao đờm xanh, đờm đỏ lại khác nhau như thế? Thầy nói: – Ðờm đỏ tự phổi ra, họa còn có phương cứu chữa, chứ đờm xanh là mật vỡ mất rồi, còn chữa thế nào cho lành được.

Bao giờ mình mới được đi nhậu cùng với anh em.

Lo lắng cho sức khỏe của chồng, sếp bà hỏi sếp ông:

– Tôi để ý thấy dạo này thần sắc của ông kém quá. Chắc ở cơ quan sắp có chuyện gì hệ trọng diễn ra phải không?

Sếp ông lo lắng:

– Tuần tới sẽ có đoàn thanh tra cấp cao xuống cơ quan tôi kiểm tra tất cả văn bằng, chứng chỉ của toàn thể cán bộ. Ở cơ quan tôi hầu như ai cũng có ít nhất một văn bằng hoặc chứng chỉ giả. Bà biết tôi có tới… năm bảy cái. Họ mà lần ra là chết chắc.

Sếp bà nghe xong nở nụ cười bí hiểm:

– Tôi nghĩ ra một giải pháp, vừa giúp ông đường hoàng thoát hiểm, vừa nở mày nở mặt với thiên hạ.

Sếp ông nửa tin nửa ngờ hỏi:

– Ý của bà ra sao?

– Ông gấp rút đăng tin “Mất giấy tờ” trên các đài truyền hình, truyền thanh, cơ quan báo chí khắp cả nước. Đại khái như thế này: “Vào lúc… giờ… ngày… tháng… năm… Trên đường đi từ… đến… Tôi có đánh rơi một chiếc ví. Bên trong có các loại giấy tờ như sau: Một bằng Tiến sĩ, một bằng Cao cấp chính trị, một chứng chỉ C Anh ngữ… Ai nhặt được vui lòng liên hệ…”. Như thế ông vừa có cớ hợp pháp để khỏi bị thanh tra, đồng thời khiến nhiều người thán phục về bộ sưu tập bằng cấp, chứng chỉ thuộc dạng khủng của ông.

Sếp ông nghe xong vỗ đùi bôm bốp, giọng hân hoan:

– Diệu kế! Bà đúng là sáng suốt.

Mình nên chọn cái nào bây giờ nhỉ?

Bạn đang xem bài viết Hình Tượng Con Rồng Trong Truyện Cổ Dân Gian Ê Đê, M’Nông trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!