Xem Nhiều 3/2023 #️ Một Trăm Truyện Tích Nhân Duyên (Trăm Bài Kinh Phật) # Top 4 Trend | Anhngucongdong.com

Xem Nhiều 3/2023 # Một Trăm Truyện Tích Nhân Duyên (Trăm Bài Kinh Phật) # Top 4 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Một Trăm Truyện Tích Nhân Duyên (Trăm Bài Kinh Phật) mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Font chữ:

Vua Ba-tư-nặc nhìn thấy con như vậy thì không vui chút nào, liền dặn nội thị phải thận trọng giữ kín, không được để cho người ngoài nhìn thấy hoặc hay biết chuyện này. Vua lại nghĩ rằng: “Con bé ấy tuy hình dung xấu xí, nhưng dù sao cũng là do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.” Liền dặn người phải chăm sóc nuôi dưỡng cẩn thận.

Khi công chúa lớn lên, đến tuổi gã chồng, vua lo buồn suy nghĩ, chẳng biết làm sao, vì công chúa xấu quá. Liền gọi một vị đại thần đến, dặn kín rằng: “Ngươi hãy vì ta mà đi tìm cho công chúa một người chồng. Nên tìm người nào trước đây thuộc dòng hào tộc, nhưng gia thế nay đã suy sụp, túng thiếu bần hàn thì mới thích hợp.”

Đại thần vâng lệnh, tìm khắp nơi, được một người trước đây vốn con nhà hào tộc danh gia, nhưng hiện tại bần cùng đói khổ. Liền đưa đến bái kiến vua.

Vua liền đưa người ấy vào chỗ kín đáo, đuổi hết kẻ hầu chung quanh ra, rồi mới bảo rằng: “Ta nghe nhà ngươi vốn dòng hào tộc, giờ đây túng thiếu bần cùng. Vậy ta sẽ chu cấp các thứ tài vật trân bảo cho ngươi, khiến cho được giàu có như xưa. Nay ta có một đứa con gái, diện mạo cực kỳ xấu xí, mong ngươi hãy thuận ý ta, nhận nó làm vợ.”

Người bần cùng ấy liền quỳ tâu lên vua rằng: “Xin theo lời dạy của vua. Dù vua có bảo tôi lấy chó làm vợ, tôi cũng không dám trái ý, huống hồ công chúa vốn thật do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.”

Vua liền mang công chúa gã cho người ấy. Rồi ban cho nhà cửa cao rộng, dặn người chồng phải thường xuyên đóng chặt cửa nhà, nếu có đi ra ngoài thì phải khóa lại, chẳng cho người ngoài ra vào, sợ nhìn thấy công chúa xấu xí. Về phần công chúa cũng phải giữ kỹ trong nhà chẳng cho đi ra bên ngoài. Vua nói với phò mã rằng: “Con ta xấu lắm, chẳng nên để cho người ngoài trông thấy.”

 Vua ban cho rất nhiều tài vật, trân bảo, lại phong cho phò mã làm đại thần.

Qua một thời gian, vị đại thần ấy trở nên giàu có, thường giao du đi lại với các nhà hào tộc, phú gia. Ngày kia có lễ hội lớn, hết thảy mọi người đều đến dự. Người nào cũng đưa vợ đến để cùng vui chơi.

Những người dự hội khi ấy thấy vị đại thần ấy dự hội một mình, không có vợ cùng đi, liền sinh nghi ngờ, hỏi nhau rằng: “Người ấy không đưa vợ đến đây, hoặc giả là vợ anh ta đẹp quá, không muốn cho ai nhìn thấy, hoặc là xấu xí cùng cực, chẳng muốn để lộ ra?” Bàn qua nói lại, chẳng ai biết được thực hư thế nào, liền cùng nhau lập kế tìm hiểu.

Cả bọn luân phiên chuốc rượu cho người ấy đến say mèm, nằm lăn ra đất. Xong, họ cử ra năm người đi đến nhà người ấy mà xem cho biết sự thật.

Khi ấy, công chúa xấu xí ở nhà trong lòng phiền não, tự hối trách mà suy nghĩ rằng: “Ta xưa đã tạo ác nghiệp gì mà nay phải thọ khổ thế này? Hình dung xấu xí khiến cho chồng chẳng dám cho ra bên ngoài, phải thường ở trong phòng kín, chẳng được giao tiếp cùng ai cả.”

Rồi lại nghĩ rằng: “Nay có Phật ở đời, thường lấy tâm từ bi mà quán sát hết thảy chúng sanh, cứu độ cho những ai khổ nạn.” Nghĩ vậy rồi liền quỳ xuống mà vọng bái đức Thế Tôn, nguyện được ngài thương tưởng mà hiện đến giáo hóa cho. Lòng cô chân thành, chí tâm cầu thỉnh, nên Phật biết tâm nguyện của cô liền hiện đến.

Thoạt tiên, đức Thế Tôn hiện cho cô thấy đỉnh đầu của ngài. Cô nhìn thấy rồi trong lòng vui sướng, hân hoan, sinh lòng tin phục sâu vững. Bỗng nhiên tóc trên đầu cô hóa ra mềm mại, óng mượt, xinh đẹp vô cùng.

Dần dần, Phật hiện cả toàn thân cho cô chiêm ngưỡng. Khi cô nhìn thấy toàn thân Phật rồi, lòng cô vui mừng khôn xiết, trong tâm hoan hỷ, thanh thản nhẹ nhàng, bao nhiêu lo buồn, sầu khổ đều mất hết. Bỗng nhiên thân hình cô hóa ra đoan chánh, mỹ miều, dáng vẻ xinh đẹp như tiên giáng thế.

Khi ấy, Phật hiện hào quang sắc vàng rực rỡ quanh thân cho cô thấy, cô liền sinh lòng kính tín, khát ngưỡng. Phật vì cô mà thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe, ngay khi ấy cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Thuyết pháp xong, Phật trở về tinh xá Kỳ Hoàn.

Bấy giờ, năm người do nhóm trưởng giả nơi lễ hội cử đến cũng vừa tới nơi. Họ giả vờ gọi cửa bảo là đem tin của ông đại thần về. Công chúa cho người mở cửa mời vào. Nhìn thấy công chúa rồi, bọn họ tâm thần mê mẩn, đều khen là chưa từng được thấy ai xinh đẹp đến thế. Họ bảo nhau: “Thảo nào ông ta không dám đưa vợ đến nơi lễ hội.” Rồi họ trở về chỗ lễ hội mà loan tin ấy với mọi người. Được thỏa mãn rồi, ai nấy đều giải tán.

Ông đại thần tỉnh rượu, tự tìm về nhà. Ông thấy một người con gái xinh đẹp tuyệt thế ở trong nhà mình thì hết sức kinh ngạc, liền lên tiếng hỏi: “Nàng là ai? Vì sao lại đến đây?” Công chúa đáp: “Em là vợ của chàng đây mà.” Rồi cô đem hết mọi sự thuật lại cho chồng nghe. Kể xong, cô lại nói: “Xin chàng vì em đến tâu với phụ vương, xin cho em gặp mặt.” Người chồng nhận lời, vào cung xin gặp vua Ba-tư-nặc.

Khi gặp vua rồi, người nói: “Công chúa muốn gặp đại vương.” Vua đáp: “Chớ nói điều ấy. Ngươi chỉ nên canh chừng cửa nẻo cho nghiêm nhặt, đừng để nó đi ra bên ngoài.” Người chồng nói: “Sao lại như vậy được? Công chúa bây giờ nhờ oai đức của Phật, đã thay hình đổi dạng xinh đẹp như tiên nga, chẳng còn xấu xí như trước nữa.”

Vua nghe rồi chưa tin là thật, liền truyền xa giá đến thăm con gái ngay khi ấy. Gặp con rồi, thấy quả thật như lời người chồng nói, trong lòng vua vừa mừng vui, lại vừa nghi ngại. Vua liền truyền quân chuẩn bị xa giá, cùng với công chúa đi đến chỗ Phật.

Đến nơi, vua lễ bái Phật rồi quỳ xuống bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Không biết công chúa trước đây tạo nghiệp thiện ác như thế nào, mà nay tuy sinh vào hoàng tộc lại phải thọ thân xấu xí? Xin đức Thế Tôn từ bi dạy cho được biết.”

Phật bảo: “Ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị trưởng giả giàu có vô cùng. Trưởng giả ấy thường thỉnh một vị Phật Bích-chi đến nhà cúng dường, lễ bái. Phật Bích-chi ấy dung mạo cực kỳ xấu xí, thân thể thô kệch khó coi.

Ông trưởng giả có người con gái nhỏ, thấy Phật Bích-chi dung mạo xấu xí thì sinh lòng khinh miệt, dùng những lời nặng nề, thô bỉ mà xúc phạm.

Vị Phật Bích-chi ấy vẫn cứ đến thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả rất lâu. Đến khi ngài sắp nhập Niết-bàn, mới dùng thần thông bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa, đi đứng nằm ngồi trên không trung, tự tại không ngăn ngại, khiến cho cả nhà ông trưởng giả ấy đều được chứng kiến. Xong rồi, ngài mới từ trên hư không mà hạ xuống nơi nhà ông trưởng giả.

Ông trưởng giả thấy vậy thì vui mừng, hoan hỷ lắm. Riêng cô con gái tự sinh lòng hổ thẹn, hối trách, liền quỳ xuống trước Phật Bích-chi mà chí thành cầu xin sám hối.”

Phật lại dạy rằng: “Cô con gái nhà trưởng giả, thuở ấy khinh miệt, xúc phạm vị Phật Bích-chi, ngày nay thọ thân làm công chúa xấu xí đó. Tuy nhiên, nhờ phước đức cúng dường, nên thường được sinh vào nhà quyền quý, giàu sang, chẳng chịu sự khổ đói thiếu. Lại nhờ biết chí thành sám hối lỗi lầm, nên nay được gặp ta cứu cho thoát khổ.”

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và quần thần, chúng dân, nghe Phật thuyết nhân duyên nghiệp báo của vị công chúa xấu xí ấy rồi, tâm ý liền khai mở, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Lúc ấy, Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Hoàng hậu của vua Ba-tư-nặc là phu nhân Mạt-lỵ vừa hạ sinh một công chúa, dung mạo cực kỳ xấu xí. Thân thể thô kệch, da thịt xù xì, đầu tóc cứng nhắc, bờm xờm như đuôi ngựa.Vua Ba-tư-nặc nhìn thấy con như vậy thì không vui chút nào, liền dặn nội thị phải thận trọng giữ kín, không được để cho người ngoài nhìn thấy hoặc hay biết chuyện này. Vua lại nghĩ rằng: “Con bé ấy tuy hình dung xấu xí, nhưng dù sao cũng là do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.” Liền dặn người phải chăm sóc nuôi dưỡng cẩn thận.Khi công chúa lớn lên, đến tuổi gã chồng, vua lo buồn suy nghĩ, chẳng biết làm sao, vì công chúa xấu quá. Liền gọi một vị đại thần đến, dặn kín rằng: “Ngươi hãy vì ta mà đi tìm cho công chúa một người chồng. Nên tìm người nào trước đây thuộc dòng hào tộc, nhưng gia thế nay đã suy sụp, túng thiếu bần hàn thì mới thích hợp.”Đại thần vâng lệnh, tìm khắp nơi, được một người trước đây vốn con nhà hào tộc danh gia, nhưng hiện tại bần cùng đói khổ. Liền đưa đến bái kiến chúng tôi liền đưa người ấy vào chỗ kín đáo, đuổi hết kẻ hầu chung quanh ra, rồi mới bảo rằng: “Ta nghe nhà ngươi vốn dòng hào tộc, giờ đây túng thiếu bần cùng. Vậy ta sẽ chu cấp các thứ tài vật trân bảo cho ngươi, khiến cho được giàu có như xưa. Nay ta có một đứa con gái, diện mạo cực kỳ xấu xí, mong ngươi hãy thuận ý ta, nhận nó làm vợ.”Người bần cùng ấy liền quỳ tâu lên vua rằng: “Xin theo lời dạy của vua. Dù vua có bảo tôi lấy chó làm vợ, tôi cũng không dám trái ý, huống hồ công chúa vốn thật do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.”Vua liền mang công chúa gã cho người ấy. Rồi ban cho nhà cửa cao rộng, dặn người chồng phải thường xuyên đóng chặt cửa nhà, nếu có đi ra ngoài thì phải khóa lại, chẳng cho người ngoài ra vào, sợ nhìn thấy công chúa xấu xí. Về phần công chúa cũng phải giữ kỹ trong nhà chẳng cho đi ra bên ngoài. Vua nói với phò mã rằng: “Con ta xấu lắm, chẳng nên để cho người ngoài trông thấy.”Vua ban cho rất nhiều tài vật, trân bảo, lại phong cho phò mã làm đại thần.Qua một thời gian, vị đại thần ấy trở nên giàu có, thường giao du đi lại với các nhà hào tộc, phú gia. Ngày kia có lễ hội lớn, hết thảy mọi người đều đến dự. Người nào cũng đưa vợ đến để cùng vui chơi.Những người dự hội khi ấy thấy vị đại thần ấy dự hội một mình, không có vợ cùng đi, liền sinh nghi ngờ, hỏi nhau rằng: “Người ấy không đưa vợ đến đây, hoặc giả là vợ anh ta đẹp quá, không muốn cho ai nhìn thấy, hoặc là xấu xí cùng cực, chẳng muốn để lộ ra?” Bàn qua nói lại, chẳng ai biết được thực hư thế nào, liền cùng nhau lập kế tìm hiểu.Cả bọn luân phiên chuốc rượu cho người ấy đến say mèm, nằm lăn ra đất. Xong, họ cử ra năm người đi đến nhà người ấy mà xem cho biết sự thật.Khi ấy, công chúa xấu xí ở nhà trong lòng phiền não, tự hối trách mà suy nghĩ rằng: “Ta xưa đã tạo ác nghiệp gì mà nay phải thọ khổ thế này? Hình dung xấu xí khiến cho chồng chẳng dám cho ra bên ngoài, phải thường ở trong phòng kín, chẳng được giao tiếp cùng ai cả.”Rồi lại nghĩ rằng: “Nay có Phật ở đời, thường lấy tâm từ bi mà quán sát hết thảy chúng sanh, cứu độ cho những ai khổ nạn.” Nghĩ vậy rồi liền quỳ xuống mà vọng bái đức Thế Tôn, nguyện được ngài thương tưởng mà hiện đến giáo hóa cho. Lòng cô chân thành, chí tâm cầu thỉnh, nên Phật biết tâm nguyện của cô liền hiện đến.Thoạt tiên, đức Thế Tôn hiện cho cô thấy đỉnh đầu của ngài. Cô nhìn thấy rồi trong lòng vui sướng, hân hoan, sinh lòng tin phục sâu vững. Bỗng nhiên tóc trên đầu cô hóa ra mềm mại, óng mượt, xinh đẹp vô cùng.Dần dần, Phật hiện cả toàn thân cho cô chiêm ngưỡng. Khi cô nhìn thấy toàn thân Phật rồi, lòng cô vui mừng khôn xiết, trong tâm hoan hỷ, thanh thản nhẹ nhàng, bao nhiêu lo buồn, sầu khổ đều mất hết. Bỗng nhiên thân hình cô hóa ra đoan chánh, mỹ miều, dáng vẻ xinh đẹp như tiên giáng thế.Khi ấy, Phật hiện hào quang sắc vàng rực rỡ quanh thân cho cô thấy, cô liền sinh lòng kính tín, khát ngưỡng. Phật vì cô mà thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe, ngay khi ấy cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Thuyết pháp xong, Phật trở về tinh xá Kỳ Hoàn.Bấy giờ, năm người do nhóm trưởng giả nơi lễ hội cử đến cũng vừa tới nơi. Họ giả vờ gọi cửa bảo là đem tin của ông đại thần về. Công chúa cho người mở cửa mời vào. Nhìn thấy công chúa rồi, bọn họ tâm thần mê mẩn, đều khen là chưa từng được thấy ai xinh đẹp đến thế. Họ bảo nhau: “Thảo nào ông ta không dám đưa vợ đến nơi lễ hội.” Rồi họ trở về chỗ lễ hội mà loan tin ấy với mọi người. Được thỏa mãn rồi, ai nấy đều giải tán.Ông đại thần tỉnh rượu, tự tìm về nhà. Ông thấy một người con gái xinh đẹp tuyệt thế ở trong nhà mình thì hết sức kinh ngạc, liền lên tiếng hỏi: “Nàng là ai? Vì sao lại đến đây?” Công chúa đáp: “Em là vợ của chàng đây mà.” Rồi cô đem hết mọi sự thuật lại cho chồng nghe. Kể xong, cô lại nói: “Xin chàng vì em đến tâu với phụ vương, xin cho em gặp mặt.” Người chồng nhận lời, vào cung xin gặp vua Ba-tư-nặc.Khi gặp vua rồi, người nói: “Công chúa muốn gặp đại vương.” Vua đáp: “Chớ nói điều ấy. Ngươi chỉ nên canh chừng cửa nẻo cho nghiêm nhặt, đừng để nó đi ra bên ngoài.” Người chồng nói: “Sao lại như vậy được? Công chúa bây giờ nhờ oai đức của Phật, đã thay hình đổi dạng xinh đẹp như tiên nga, chẳng còn xấu xí như trước nữa.”Vua nghe rồi chưa tin là thật, liền truyền xa giá đến thăm con gái ngay khi ấy. Gặp con rồi, thấy quả thật như lời người chồng nói, trong lòng vua vừa mừng vui, lại vừa nghi ngại. Vua liền truyền quân chuẩn bị xa giá, cùng với công chúa đi đến chỗ Phật.Đến nơi, vua lễ bái Phật rồi quỳ xuống bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Không biết công chúa trước đây tạo nghiệp thiện ác như thế nào, mà nay tuy sinh vào hoàng tộc lại phải thọ thân xấu xí? Xin đức Thế Tôn từ bi dạy cho được biết.”Phật bảo: “Ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị trưởng giả giàu có vô cùng. Trưởng giả ấy thường thỉnh một vị Phật Bích-chi đến nhà cúng dường, lễ bái. Phật Bích-chi ấy dung mạo cực kỳ xấu xí, thân thể thô kệch khó coi.Ông trưởng giả có người con gái nhỏ, thấy Phật Bích-chi dung mạo xấu xí thì sinh lòng khinh miệt, dùng những lời nặng nề, thô bỉ mà xúc phạm.Vị Phật Bích-chi ấy vẫn cứ đến thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả rất lâu. Đến khi ngài sắp nhập Niết-bàn, mới dùng thần thông bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa, đi đứng nằm ngồi trên không trung, tự tại không ngăn ngại, khiến cho cả nhà ông trưởng giả ấy đều được chứng kiến. Xong rồi, ngài mới từ trên hư không mà hạ xuống nơi nhà ông trưởng giả.Ông trưởng giả thấy vậy thì vui mừng, hoan hỷ lắm. Riêng cô con gái tự sinh lòng hổ thẹn, hối trách, liền quỳ xuống trước Phật Bích-chi mà chí thành cầu xin sám hối.”Phật lại dạy rằng: “Cô con gái nhà trưởng giả, thuở ấy khinh miệt, xúc phạm vị Phật Bích-chi, ngày nay thọ thân làm công chúa xấu xí đó. Tuy nhiên, nhờ phước đức cúng dường, nên thường được sinh vào nhà quyền quý, giàu sang, chẳng chịu sự khổ đói thiếu. Lại nhờ biết chí thành sám hối lỗi lầm, nên nay được gặp ta cứu cho thoát khổ.”Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và quần thần, chúng dân, nghe Phật thuyết nhân duyên nghiệp báo của vị công chúa xấu xí ấy rồi, tâm ý liền khai mở, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Cây Tre Trăm Đốt (Series Truyện Cổ Tích Kinh Dị

TUYẾN TẬP CÔ TÍCH KINH DỊ CÂY TRE TRĂM ĐỐT

Trong đêm tối, lũy tre làng im lìm như một bức tường đá, bao bọc lây ngôi làng nhỏ ở bên trong. Giữa những con đường làng ngoăn ngoèo, ánh đèn sáng rực tỏa ra từ một căn nhà lớn khang trang. Những căn nhà nhỏ xung quanh như bị bóng tôi nuôt chứng, chỉ có ánh đẻn dâu leo lét hắt qua vách nứa. Có lẽ chính bởi vậy mà họ phải vờ như không nghe thây tiêng thét vọng ra tử ngôi nhà bê thê kia.

“Á aaaa… Cứu tôi với! Cứu tôi!”

Những hộ nông dân nghèo xung quanh đã quá quen thuộc với tiêng kêu khóc nỉ non của một cô gái tội nghiệp nào đó ở sau , những bức tường gạch vững chãi ây, thê nhưng họ chăng thê làm gì khác ngoài im lặng.

Cô gái ấy đang quỳ rạp xuống dưới chân – một thanh niên trẻ có gương mặt ngạo nghề, đôi môi đang khẽ nở nụ cười nửa miệng. “Xử lí nó đi! Đừng để lại vết tích gì.” Hắn ta nÓI.

Cô gái gào lên xin tha nhưng không một aI bận tâm. Cô bị lôi xênh xệch ra sau nhà. Những tên gia nhân tay chân khỏe khoăn đẻ nghiên cô gái xuông đất. Một người dùng hai bản tay bóp chặt lây chiếc cô gây gò của cô gái. Cô gái cào cấu, giãy giụa nhưng

chăng thê thoát ra khỏi gọng kìm của đôi bản tay sắt đá. Cô gái dân dân tắt thở, đôi mặt vân trợn trừng lên u ám.

Lũ gia nhân rải một tâm vải bạt lớn ra, lôi ra mây con dao rựa. Tay chúng khẽ run lên. “Làm đi!” Tên thiếu gia trẻ khẽ ra lệnh rôi quay lưng bỏ đi.

Những nhát dao oan nghiệt giáng xuống. Máu phun ra khắp nơi như suôi chảy.

Đêm đó, có những bóng người bịt mặt mang theo những chiêc bọc ướt sũng rời nhàđi – khỏi làng. Sáng ngày hôm sau, người dân đê ý thây một vải vệt đỏ rơi rớt trên con đường làng nhưng chúng nhanh chóng bị những cơn mưa mùa hè rửa trôi đi.

Trở lại ba năm về trước, ở cách đó hai ngôi làng, nơi bóng tre rậm rạp vân phủ xuông muôn nơi, cảnh vật thanh binh hơn biệt bao. Ngôi làng ây có một ông phú hộ giàu có. Ruộng đât nhà ông ta trải dài mênh mông, thóc gạo chât đây kho, tiên của không sao đêm hết.

Ruộng vườn cần có người chăm băm quanh năm, vì thê lão phú hộ nhăm ở trong làng một anh nông dân nghèo khô đê mướn làm thuê cho mình. Anh nông dân ây tên Điện, bô mẹ mât sớm chăng đê lại gì, chỉ biệt dùng sức lực quân quật làm lụng đê sông qua ngày. Thây anh chăm chỉ chịu khó, lão phú hộ vừa lòng lắm.

Ý Nghĩa Của Truyện Cổ Tích Cây Tre Trăm Đốt

Việt Nam có kho tàng truyện cổ khá phong phú, lại giàu tính nhân văn và chứa đựng những bài học nhân sinh sâu sắc. Đúng như Puskin nhận xét: ” Truyện cổ tích là dối trá, nhưng trong truyện cổ tích có những gợi ý, những bài học cho những cu cậu hảo tâm“. Thế giới trong truyện cổ tích phong phú không chỉ bởi sự nhiệm màu trong những nhân vật, bối cảnh, mà còn ở hàng loạt những ý nghĩa trừu tượng được các tác giả dân gian gửi gắm.

Cây tre trăm đốt là một trong những câu chuyện cổ tích phổ biến nhất của Việt Nam, chứa đựng nhiều bài học hay khiến ta phải suy ngẫm. Người tốt, thiện lương sẽ luôn được giúp đỡ vào những lúc khó khăn và tuyệt vọng nhất và nhận được sự đền đáp xứng đáng còn những kẻ tham lam, gian ác, dối trá sẽ phải nhận sự trừng phạt thích đáng.

Vài nét về tác phẩm

Ngày xưa có một chàng trai hiền lành, khỏe mạnh tên là Khoai đi cày thuê cho vợ chồng ông phú hộ. Hai người này có hứa: “Con chịu khó làm lụng giúp ta, ba năm nữa ta sẽ gả con gái ta cho”.

Tin vào lời hứa, anh ra sức làm việc không ngại khó nhọc. Nhưng ba năm sau, khi mà ông nhà giàu đã có mọi thứ của cải, ông bèn trở mặt, ông đưa ra một điều kiện là phải tìm được một cây tre trăm đốt để làm nhà cưới vợ thì ông mới gả con gái cho. Vì muốn có cơ hội để cưới con gái của chủ, anh bèn lên rừng quyết tâm tìm được một cây tre trăm đốt. Tìm mãi không thấy, anh thất vọng ngồi khóc. Bỗng Bụt hiện lên và bảo anh đi tìm, chặt cho đủ 100 đốt tre rời rồi giúp anh bằng hai câu thần chú: “khắc nhập, khắc nhập!” để gắn kết 100 đốt tre rời thành một cây tre trăm đốt và “khắc xuất, khắc xuất!” để tách các đốt tre ra.

Nhờ là các khúc tre rời nên anh cũng dễ dàng gánh về làng được. Về nhà, anh cho cha vợ tương lai của mình xem cây tre trăm đốt. Không tin vào điều mắt mình nhìn thấy, ông nhà giàu sờ tay vào cây đếm từng khúc tre. Phép màu của Bụt đã hút ông dính luôn vào cây tre. Khi ông đồng ý giữ lời hứa, anh mới sực nhớ ra câu “khắc xuất” để giải thoát cho cha vợ của mình. Sợ hãi, ông phú hộ phải giữ lời hứa, gả con gái cho anh nông dân. Cuối cùng, anh và con gái ông phú hộ sống với nhau hạnh phúc mãi mãi.

Ý nghĩa của truyện cây tre trăm đốt

Những bài học nhân sinh, những triết lí sâu sắc mà phải đi sâu vào từng lớp ngôn từ mới có thể nhận ra được, cây tre trăm đốt khiến người ta phải suy ngẫm về những ý nghĩa mà tác giả đã gửi gắm.

Thể hiện khát vọng, đấu tranh cho sự công bằng, công lý trong cuộc sống

Nói đến truyện cổ tích như là một công cụ để đấu tranh, một phương tiện để góp phần vào việc giáo dục, tức là nói đến tính tư tưởng của cổ tích. Cũng như truyện cổ tích của bất cứ dân tộc nào trên thế giới, truyện cổ tích Việt-nam sản sinh trong sinh hoạt của dân tộc, nhất là trong những môi trường gần gũi với cuộc sống thực tiễn. Cây tre trăm đốt thấm nhuần tư tưởng nhân đạo, thay người dân nói lên khát vọng chính đáng của họ, đó là ước mơ về một xã hội tốt đẹp công bằng, tốt đẹp hơn cho những người nghèo khổ, ở tầng lớp cuối cùng của xã hội.

Anh Khoai tượng trưng cho tầng lớp nghèo, không có tài sản vật chất, song anh hội tủ đủ những phẩm chất đẹp nhất của con người: chăm chỉ, hiền lành, thiện lương, ở trong hoàn cảnh khó khăn nhưng luôn biết hi vọng và mơ ước hạnh phúc. Anh là đại diện tiêu biểu nhất cho những người nghèo về vật chất nhưng lại giàu có về tinh thần.

Phú ông là đại diện cho cái ác, sự tinh ranh và lươn lẹo, ham của cải vật chất. Ông ta có những tính cách của giai cấp thống trị, khước bỏ công bằng công lý đáng lẽ phải được thực thi.

Cuộc chiến giữa anh Khoai và phú ông là cuộc chiến muôn thuở của con người, cuộc chiến giữa thiện và ác mà phần thắng trong truyện cổ tích bao giờ cũng thuộc về bên thiện. Yếu tố kì ảo bao giờ cũng xuất hiện ở những phút quan trọng nhất để giúp đỡ cho bên chính diện, nó vừa thể hiện sự bất lực của người dân khi không thể dùng chính sức mình để đấu tranh, song cũng thể hiện niềm tin bất diệt vào sự chiến thắng của công bằng. Chỉ cần là người tốt thì sẽ có được sự bảo vệ của các thế lực siêu nhiên, luôn luôn là người chiến thắng.

Bài học nhân sinh – gieo nhân nào gặp quả ấy

Kết thúc có hậu của câu truyện cho chúng ta thấy được người ăn ở hiền lương, lương thiện chắc chắn sẽ nhận lại được sự hạnh phúc sau khi phải trải qua rất nhiều khổ nạn khó khăn. Còn kẻ có dã tâm ác động thì cuối cùng cũng phải nhận lấy sự trừ phạt.Tác phẩm ngợi cả những phẩm chất tốt đẹp của anh Khoai – cần cù lao động, chính trực và thiện lương; đồng thời đả kích mạnh mẽ thói khinh người của tầng lớp nhà giàu. Kết thúc tác phẩm là sự đổi ngôi giữa hai bên càng thể hiện rõ lời khuyên của tác giả dành cho những thế hệ sau.

Cuộc sống luôn là sự đấu tranh không ngừng giữa hai thái cực, ánh sáng và bóng tối, thiện và ác, xấu xa và thiện lương. Chúng ta không thể nào loại bỏ hoàn toàn những điều xấu trong xã hội, nhưng có một điều chắc chắn thứ chúng ta nhận lại tương ứng với thứ chúng ta đã cho đi. Bạn cho một nụ cười bạn sẽ nhận được một nụ cười khác, nhưng nếu thứ bạn cho đi là sự ích kỉ bạn cũng sẽ chỉ nhận lại sự khinh thường từ xã hội. Có ý kiến nói rằng việc cái ác luôn thắng cái thiện là suy nghĩ một chiều trong truyện cổ tích, song nhìn sâu hơn, thì đó là khát vọng của dân tộc, là khát vọng luôn luôn hoàn thiện bản thân. Người nhân hậu sẽ biết cách vượt qua cái ác để cái tốt được trường tồn và có sức lan tỏa.

Anh Khoai đã có được hạnh phúc, phú ông đã có sự trừng phạt xứng đáng. Vì vậy chúng ta có quyền tin rằng làm việc tốt thì sẽ nhận được kết quả xứng đáng.

Tinh thần nhân đạo trong tác phẩm – luôn vị tha cho những người muốn quay đầu

Người xưa có câu: ” Đánh kẻ chạy đi không ai đánh kẻ chạy lại “, ý muốn nói cần phải cho mọi người cơ hội thứ hai để có thể làm lại cuộc đời, đây cũng là một trong những tư tưởng nhân đạo xuyên suốt các tác phẩm cổ tích. Dẫu thể hiện sự căm phẫn trước cái ác, khát khao công bằng công lý, là tiếng thét đòi quyền sống cơ bản của con người, song truyện cổ tích vẫn đề cao tính giáo dục, thể hiện mong muốn cái ác quay đầu. Bởi vậy mà ở kết tác phẩm, anh Khoai đã tha cho phú ông mặc dù anh có khả năng trừng phạt ông lâu hơn nữa, nhưng anh vẫn cho phú ông cơ hội để được sửa sai ăn năn và hối cải.

Cái ác không bao giờ được đẩy lùi chỉ bằng hình phạt. Đôi lúc hình phạt chỉ khiến mâu thuẫn giữa các bên trở nên nặng nề hơn, nó cần phải được cảm hóa bới chính sự thứ tha của cái thiện. Hành trình cảm hóa đó không đơn giản, song là cách lâu dài để có thể thanh lọc cuộc sống theo cách tốt nhât. Cây tre trăm đốt dạy ta về sự bao dung độ lượng, và là một lời khẳng định chỉ cần nỗ lực và cố gắng, bất cứ ai cũng có cơ hội thứ hai là sửa chữa những lỗi lầm.

Thảo Nguyên

Đọc Truyện Cây Tre Trăm Đốt

Cây tre trăm đốt

Ngày xửa ngày xưa, ở vùng nọ có một người nông phu rất nghèo khó, vì vậy nên anh ta không còn cách nào khác là phải đến ở cho nhà một phú ông vô cùng giàu có. Nhưng tính tình của phú ông này lại rất keo kiệt. Lão có rất nhiều mánh khóe để đối phó với những kẻ ở người ăn của nhà mình, hòng bòn công của họ mà bản thân lại không cần phải trả thêm bất cứ khoản tiền nào nữa.

Lão có cô con gái cũng chưa gả chồng. Khi thấy anh đầy tớ nhà mình tuổi cũng đã khá lớn, lại cũng chưa cưới vợ thì lão ta lập tức nghĩ ra được một chiêu rất hay. Lão liền giả vờ giả vịt nói với anh đầy tới là:

– Cứ cố gắng mà làm việc con ạ! Sau này lão sẽ đem con gái lão gả cho mày.

Bởi bản tính quá thật thà, khi anh chàng nghe được những lời đường mật, dụ dỗ của phú ông thì tưởng thật, cũng dần nuôi hy vọng được làm rể của phú ông.

Kể từ ngày đó trở đi thì anh chàng đổ sức để làm việc mà không quản mệt nhọc, vất cả. Khi trời con chưa sáng thì anh đã đang bì bõm lội ở ngoài đồng xa, đến khi trời đã khuya mù mịt mà anh vẫn còn trần lực ra xay lúa rồi giã gạo, lại còn kéo trục và bện thừng nữa… làm việc luôn chân luôn tay. Tất cả những công to việc lớn mà phú ông giao cho, dù có phải chịu mệt nhọc hay khó khăn thì anh chàng cũng chẳng bao giờ từ chối cả.

Khi phú ông trông thấy mưu kế của mình hiệu quả thì vô cùng mừng rỡ. Còn đứa con gái bảo bối của lão á? Đời nào mà lão lại chịu gả nó cho hạng người nghèo khố rách áo ôm, đi làm thuê làm mướn cho người như anh chứ. Một người giàu có nổi tiếng ở làng bên mới đem trầu cau và sính lễ tới dạm ngõ hỏi cưới con gái của lão cho con của hắn. Và lão cùng đã đồng ý gả rồi.

Nhưng vì để giấu anh chàng đầy tớ nhà mình nên lão yêu cầu tất cả mọi người ở trong nhà đều phải giữ im lặng về chuyện này. Còn anh chàng đầy tớ, tất nhiên là anh chẳng hề biết gì, cũng chẳng nghi ngờ lời hứa ngon ngọt của chủ nhà, vẫn cứ đinh ninh rằng phú ông nói thật, vì thế vẫn cứ quần quần mà bán mạng làm việc cho lão ta, ký thác hy vọng của mình vào lão chủ xấu xa.

Thời gian cũng vẫn cứ thế mà trôi qua, rồi thì ngày định cưới của cô con gái phú ông cuối cùng cũng đã tới. Ngày ấy ở trong nhà của phú ông, mọi người tất bật chạy qua chạy lại bày biện bàn ghế, rồi lại đi giết gà mổ lợn. Vì để tránh anh đầy tới nhà mình nảy sinh nghi ngờ lại kéo ra lắm chuyện lôi thôi ảnh hưởng đến lễ cưới của con gái mình, lão phú ông liền cho gọi anh chàng tới và nói rằng:

– Thời gian ở nhà ta con đã làm việc tốt lắm, khiến lão vô cùng ưng ý đấy. Ngày hôm nay thì lão cũng đã cho người sửa soạn đầy đủ hết cỗ bàn rồi. Nhưng mà nếu con muốn cưới con gái lão thì cũng phải có gì đấy làm sính lễ thì mới coi được chứ. Ta cũng chẳng đòi con phải có tiền bạc hay ruộng vườn. Bây giờ con cứ đi lên trên rừng kia, kiếm lấy cây tre nào có đủ trăm đốt thì đem chặt rồi mang về đây, thì lão sẽ coi đó là sính lễ rồi cho các con làm lễ thành hôn với nhau luôn. Nếu mà con không kiếm được thì lão đem con gái gả cho người ta đấy!

Anh chàng đầy tớ nghe phú ông nói một thôi một hồi thì cũng ngẩn người ra, phải một lúc sau thì anh mới hoàn hồn, vội vàng đem theo rựa mà cắm cúi lên rừng. Khi lên đến rừng, anh chàng cố tình tìm tới những bụi tre nào cao nhất, sau đó lách vào bằng được để chặt. Tuy nhiên thì cứ mỗi khi một cây tre bị đốn ngã là nỗi thất vọng của anh lại càng nhân lên. Những cây tre nhìn như cao ngất ngưởng là vậy đấy nhưng mà chẳng có cây nào đủ một trăm đốt cả, nhiều lắm thì cũng chỉ khoảng bốn mươi đốt mà thôi.

Mặc dù vậy nhưng anh vẫn chẳng nản lòng. Cây này không được anh lại đi tìm cây khác, anh còn tìm đến những nơi vô cùng hiểm hóc, ở đó có những bụi tre già, dù cho có bị những gai tre cào rách áo, cào toạc da thì anh vẫn chẳng chút bận tâm đến. Anh cứ thế tìm kiếm với hy vọng tìm được một cây tre có đủ một trăm đốt tre mang về để làm sính lễ dâng cho bố vợ tương lai của mình.

Với niềm hy vọng lớn lao trong lòng, anh cứ giơ cao rựa của mình mà chặt. Tuy nhiên dù anh có chặt bao nhiêu, dù có bao nhiêu cây tre đổ xuống thì đếm đi đếm lại cũng chẳng có cây nào đủ được một trăm đốt cả. Sức cũng đã kiệt, anh mệt mỏi và buồn rầu, quá chán nản nên anh đem con rựa trên tay quẳng luôn xuống dưới đất rồi tức tưởi ngồi khóc một mình.

Tiếng khóc nức nở của anh làm vang động núi rừng. Khi tiếng khóc của anh đến tai của Bụt thì Bụt lập tức xuất hiện trước mặt anh mà hỏi rằng:

– Con là ai? Tại sao con lại ngồi khóc ở nơi này?

Anh chàng cố gạt hết nước mắt trên mặt mà thành thật kể lại cho Bụt nghe đầu đuôi câu chuyện. Khi nghe xong, Bụt liền bảo anh:

– Con hãy nín khóc đi. Bây giờ con hãy đi chặt đủ một trăm dốt tre rồi mang lại đây.

Nghe lời Bụt nói, anh chàng lập tức đi chặt đủ một trăm dốt tre rồi mang về chỗ Bụt đang đứng. Nhưng mà mang về rồi thì anh lại tiếp tục khóc than. Bụt hỏi:

– Tại sao con lại khóc?

Anh chàng buồn bã đáp:

– Phú ông yêu cầu con phải chặt cho được một cây tre có đủ một trăm đốt tre, chứ không phải là chặt được một trăm đốt tre đâu!

Bụt cười hiền lành, nhẹ giọng an ủi, sau đó thì bảo anh chàng để một trăm đốt tre rời thành một hàng ngay ngắ n rồi bảo hô:

– Khắc nhập! Khắc nhập!

Vâng lời Bụt, anh chàng cũng hô lớn thì lập tức có phép màu xuất hiện, khi anh vừa dứt lời thì một trăm đốt tre rời đột nhiên chắp lại với nhau hệt như là chúng vốn là một cây vậy.

Khi đã có được cây tre trăm đốt như đúng yêu cầu của phú ông thì anh chàng vô cùng mừng rỡ, vội vàng vác cây tre mang về. Tuy nhiên thì dù anh có dùng sức bao nhiêu thì cũng không cách nào vác cây tre lên mà mang về nhà được. Anh cứ loay hoay mất một lúc lâu, sau cùng thì bất lực, anh lại để tre xuống mà khóc than. Nghe tiếng khóc của anh, Bụt lại hiện lên và hỏi:

– Con làm sao lại khóc rồi?

Anh chán nản thưa:

– Vì cây tre này dài quá, con không thể đưa nó về được.

Bụt cười lại dạy anh câu thần chú khác:

– Khắc xuất! Khắc xuất!

Khi anh chàng vừa hô xong thì phép màu cũng lại xuất hiện, cây tre ấy lại lập tức rời nhau ra thành một trăm đốt tre như ban đầu. Anh chàng mừng quá, cảm ơn Bụt rối rít, sau đó thì anh cột tre thành hai bó to rồi quảy lên vai đem ra khỏi khu rừng.

Lúc anh chàng nông phu vừa về tới cửa nhà phú ông thì cũng là lúc mà hai họ đương cỗ bàn vô cùng linh đình, cũng là lúc mà cô dâu và chú rể chuẩn bị bước ra ngoài để làm lễ cưới.

Anh chàng cũng chẳng thể hiện cảm xúc gì, chỉ lẳng lặng gọi phú ông tới để nhận sính lễ. Khi nhìn thấy những đốt tre rời rạc thì phú ông lập tức quát lớn:

– Tao đã bảo mày đi chặt lấy một cây tre có trăm đốt, chứ ai bảo mày đi chặt một trăm đốt tre về làm gì! Đúng là đồ ngớ ngẩn!

Dù lão phú ông quát vậy nhưng anh cũng chẳng nói chẳng rằng gì, chỉ hô lên liên tục:

– Khắc nhập! Khắc nhập!

Những đốt tre cứ lần lượt rời khỏi bó rồi chắp lại với nhau trở thành một cây tre cao ngất. Phú ông trông thấy, vừa ngạc nhiên, vừa bực mình, lão liền chạy ngay tới định phá cho những đốt tre phải rời nhau ra. Tuy nhiên thì tiếng hô “khắc nhập” của anh nông phu có phép màu không dừng lại, khiến cho cả thân người của lão phú ông cũng bị dính liền luôn vào thân cây tre, nhìn như là một đốt nối thêm vào cây vậy.

Thấy mình bị dính vào với cây, phú ông lập tức kêu la ầm ỹ. Tiếng kêu la oai oái của lão khiến cho cả hai họ đều vô cùng hốt hoảng mà chạy hết ra ngoài. Chàng rể chính là người đầu tiên tiến tới định bụng sẽ gỡ hộ bố vợ mình, nhưng là anh nông phu lại hô “khắc nhập” khiến cho hắn cũng dính luôn vào cây tre, đội cả phú ông lên trên đầu. Tiếp theo là ông thông gia, vốn định chạy lại gỡ con trai của mình ra nhưng cũng lại bị dính luôn vào đấy.

Sau đó thì hai bên họ nhà trai và họ nhà gái cứ nối tiếp nhau xông vào, định là gỡ nhưng lại thành ra bị dính chặt vào cây tre. Mọi người đều đã sợ đến mức mặt cũng xanh mét lại rồi, nhưng mà anh nông phu kia thì vẫn rất thản nhiên đứng ở một góc sân chờ câu trả lời của phú ông.

Sau cùng thì phú ông cũng phải mở miệng van lạy anh hết lời, xin anh thả mọi người ra và cũng hứa sẽ gả con gái mình cho anh đúng như những gì lão đã hứa trước đây. Đến lúc bấy giờ thì anh nông phu mới hô:

– Khắc xuất! Khắc xuất!

Ngay lập tức, cả phú ông cùng với mọi người đều được thoát khỏi cây tre kia. Sau đó thì họ nhà trai cùng với chàng rể của nhà mình phải ra về tay không. Còn anh chàng nông phu thì lại đúng như ước nguyện được cưới con gái phú ông làm vợ.

Bạn đang xem bài viết Một Trăm Truyện Tích Nhân Duyên (Trăm Bài Kinh Phật) trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!