Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Cảnh Khuya Của Tác Giả Hồ Chí Minh mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Bài làmNăm 1947, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của chúng ta đang diễn ra đầy thử thách và bi thương, vị cha già của dân tộc Việt Nam tại chiến khu Việt Bắc vẫn gửi gắm tình yêu với dân tộc và sự lạc quan của mình vào những lời thơ. Một sáng tác vào thời điểm trên thể hiện những suy tư của Bác cùng tình yêu với thiên nhiên chính là tác phẩm Cảnh khuya.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
Trong bối cảnh cuộc chiến đầy khổ đau và thiếu thốn, tâm hồn của người thi sỹ vẫn không vì vậy mà cằn cỗi đau thương, thay vào đó tác giả vẫn thể hiện cái nhìn đầy tình cảm và một niềm lạc quan vào câu thơ “Tiếng suối trong như tiếng hát xa”. Một phép so sánh sự vật và con người rõ ràng ai cũng có thể cảm nhận được. Tuy vậy điều đặc biệt ở đây là tác giả đã so sánh tiếng chảy của dòng suối với tiếng hát của con người vọng lại.
Thông thường tiếng suối được miêu tả bằng những từ láy “róc rách”, “rì rào”, “êm ái”,… chỉ có thi nhân Nguyễn Trãi mới từng lạ hóa tiếng suối với câu thơ “Côn Sơn suối chảy rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai” với việc ví von tiếng suối ngân vang như tiếng đàn. Ở đây, cũng kỳ lạ không kém, lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam, tiếng suối lại được cảm nhận bằng tính từ “trong”. Đó phải chăng là tiếng suối chảy hay là hình ảnh dòng nước mát của con suối này? Tiếng suối ở đây không trong vắt, trong xanh mà đặc biệt hơn nữa nó lại trong như “tiếng hát xa”. Đặt trong bối cảnh cần lao giữa núi rừng heo hút, tiếng hát xa của một chàng tiều phu, của cô thôn nữ nào đó như càng trở nên trong trẻo vang vọng hơn bao giờ hết.
Sau khi để người đọc tĩnh lặng cảm nhận những dòng chảy thanh thuần của con suối, tác giả quay trở lên với cảnh vật bên trên “Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Đến đây thì người đọc có thể tưởng tượng về một bức tranh sơn mặc phong thủy hữu tình, dưới chân là con suối trong vắt êm đềm và bên đôi bờ là cây cỏ được soi rọi bởi ánh trăng sáng. Điệp từ “lồng” được đặt trong một câu thơ thất ngôn vừa khiến cho câu thơ đọc lên đầy thi vị, đầy âm hưởng lại khiến cho cảnh vật như trở lên bập bùng, kỳ ảo khi trăng thì xen vào tán lá còn bóng thì chập chùng giữa những bông hoa.
Ánh trăng hẳn phải sáng lắm, tròn lắm thì rọi vào cảnh vật mới trở nên sống động như vậy, khiến người đọc cảm tưởng như có những chiếc lá cây nhẹ rung, những bông hoa như được thắp sáng. Thi nhân Lý Bạch của Trung Quốc cũng từng viết “Sàng tiền minh nguyệt quang. Nghi thị địa thượng sương” (Tĩnh dạ tư) ý muốn nói ánh trăng chiếu rọi vào đầu giường khiến cho mặt đất như phủ một lớp sương mỏng. Quả thật, ánh trăng luôn là nguồn cảm hứng gợi lên bao nỗi niềm, làm tô điểm cho cảnh vật thêm phần muôn hình vạn trạng.
Chỉ bằng hai câu thơ ngắn ngủi nhưng lại như họa ra một bức tranh phong cảnh thanh bình có ánh sáng, có âm nhạc, có cả lời ca và điệu nhảy múa của những chiếc bóng lồng vào hoa. Người đọc nhìn vào hai câu thơ này chỉ thấy những tình cảm cùng sự tĩnh lặng của một thi nhân như đang hòa mình vào thiên nhiên, đang say đắm với những vần thơ, đang mê mải trong tác phẩm của mình. Thế nhưng ở câu thơ sau Người viết “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ” vẫn là cảnh nhưng cảnh ở đây giống như một góc quay chậm đang từ từ chuyển hướng sang người chiến sỹ ngồi đó. Con người ngồi thầm lặng trong cảnh khuya như vậy hẳn đang ưu tư, suy nghĩ chuyện gì?
Bút pháp cảnh họa nên người làm cho con người ở trong đêm khuya thanh vắng càng trở nên cô độc, trăn trở hơn. Ấy là bởi vì “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”. Đến lúc này những tâm tư tình cảm của nhà thơ đã được bộc lộ. Nỗi lo lắng về cuộc chiến của quân và dân ta, về nền độc lập tự do của dân tộc. Nỗi lo lắng của một vị cha già đau cho nỗi đau của dân tộc. Nỗi lo lắng của người cách mạng đã đau đáu đến nỗi nó bùng phát vào trong thơ. Bởi vì lo mà không ngủ được, bởi vì suy nghĩ mà không ngủ được. Bài thơ để họa cảnh hay để nhà thơ gửi gắm nỗi niềm, để tâm tư gửi vào trong đó đây?
Chỉ với 4 câu thơ, một bức tranh cảnh rừng Việt Bắc buổi đêm và tâm tình của người chiến sỹ đã phần nào được gợi mở. Đọc thơ, người đọc như cảm thấy được đến gần với tâm tình của Bác hơn, cũng hiểu hơn phần nào về những đêm rừng trong chiến khu Việt Bắc năm ấy. Nếu chỉ nhìn qua, người đọc sẽ nhận thấy 2 câu thơ đầu dùng để tả cảnh, 2 câu thơ sau lại đặc tả người. Ấy thế nhưng cả cảnh cả người thật ra lại đều thấp thoáng trong mỗi hình ảnh. Cảnh vật và con người như đan xen vào nhau, cảnh làm nổi bật nên những ưu phiền, tĩnh lặng của người ngồi đó và người như làm cho cảnh khuya sống động đầy cảm xúc hơn.
Bài thơ sử dụng bút pháp so sánh người – cảnh, cảnh – cảnh khiến cho cảnh vật và thiên nhiên như giao hòa, hòa hợp lại làm một. Có vẻ như trong đêm khuya thanh vắng ấy, con người và cảnh vật bỗng chốc trở thành những người bạn tâm giao nơi trao gửi cả nỗi lòng. Thêm vào đó thủ pháp ẩn dụ, tả cảnh ngụ tình vừa làm cho lời thơ thêm chất chứa, sâu lắng, vừa như giãy bày được nỗi niềm của một con người hết lòng vì nước vì dân, một người cha già dấy yêu của dân tộc.
Thơ của Bác lúc nào cũng vậy, có lúc chỉ là những lời thơ “Ngày dài ngâm ngợi cho khuây” thế nhưng từng câu từng chữ như cả một sóng lòng của người cách mạng gửi vào. Những tác phẩm ấy đối với kho tàng thơ Việt Nam, thật đáng quý và trân trọng biết bao.
Phân Tích Bài Thơ Cảnh Khuya Của Hồ Chí Minh
Phan tich bai tho Canh khuya cua Ho Chi Minh – Đề bài: Phân tích đoạn thơ trong bài Cảnh khuya của Hồ Chí Minh: Tiếng suối trong như tiếng hát xa…. Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Mở bài Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh không những là một vị lãnh tụ của nhân loại mà còn là một nhà thơ đầy bản lĩnh và lòng nhân ái. Chúng ta không thể không khâm phục Người khi đã để lại một khối lương thơ văn khá đồ sộ và có tầm ảnh hưởng lớn. Nói đến Bác ta không thể không nói đến tác phẩm “Cảnh khuya”, bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh khi chúng ta đang bước sang cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp tại chiến khu Việt Bắc. Bào thơ là phong thái ung dung lạc quan của Bác khi dành cho mình những phút giây thanh thản để hòa mình cùng với thiên nhiên cảnh vật khiến cho ta thật cảm thấy ngưỡng mộ tâm hồn thanh cao ấy.
Thân bài Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Giữa khung cảnh đất trời núi rừng hoang sơ nơi đây điều đầu tiên Bác cảm nhận được đó chính là.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Đọc câu thơ ta thấy Bác thật tài tình trong lối so sánh của mình. Tiến suối được cảm nhận bằng thính giác nhưng điều đặc biệt ở đây là tiêng suối ấy lại trong. Có lẽ người tuy không nhìn rõ được không nếm thử nhưng người lại cảm thấy được độ trong trẻo ngọt mát của dòng suối ấy. Chắc hẳn đây là một món quà thật ý nghĩa mà thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây cho vùng đất vùng đất hoang sơ mang tên Việt Bắc. giữa một vùng núi hoang sơ Bác vẫn có thể nghe được cái thứ âm thanh trong trẻo của nước suối cũng nghe được âm thanh của tiếng người đang hát. Tiến hát trong thơ Bác được so sánh với âm thanh trong trẻo của tiếng suối. Cách so sánh của nhà thơ khiến ta cảm thấy thật tài tình xiết bao. Âm thanh của tiến người hát cũng không rõ là từ đâu vọng lại hay đó chính là một tưởng tượng của tác giả để làm tô đậm cho cái trong trẻo của tiến suối. Cách so sánh tài tình ấy làm tiếng suối không còn trở nên lắng đọng vô hồn mà bỗng trở nên sôi động trẻ trung và khiến cảnh rừng im ắng trở nên có âm thanh có hồn người ở trong đó. Câu thơ làm ta thấy được tính nhân văn thường thấy trong thơ Bác, cảnh vật luôn được gắn liền với con người không thể tách rời khỏi con người. Trong đêm khuya thanh vắng đang mải mê với công việc thì một phút lơ là bác cảm nhận được âm thanh trong trẻo của tiếng suối để rồi cảnh rừng Việt Bắc lại tiếp tục làm cho Bác đắm say. Bác ngước lên vầng trăng và một cảnh đẹp tuyệt vời hiện ra.
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Từ “lồng” được tác giả đặt trong cùng một câu thơ gợi cho chúng ta rất nhiều suy nghĩ. Nhắc đên từ “lồng” ta nghĩ đến hai vật nào đó lồng vào nhau đan vào nhau để tao thành một vật thể thống nhất. Ở đây ánh trăng soi rọi vào bóng cây cổ thụ ngay trước cửa phòng Bác rồi bóng cây cổ thụ ấy lại tiếp tục phủ mình lên những bông hoa. Dường như đối với Bác hình ảnh ấy đã tạo thành một chỉnh thể thống nhất tự nhiên. Cảnh vật lúc này như được hòa quyện hòa nhập vào nhau khiến cho con người xốn xang dao động. Các sự vật đan lồng vào nhau tạo nên một bức tranh chỉ có hai gam màu sáng tối, trắng đên như nhiều lớp lang, tầng bậc cao thấp lung linh, chập chờn, huyền ảo, sống động mà ấm áp, hòa hợp quấn quýt với hàng chục, hàng trăm sắc hình đa dạng. Trăng – cây cổ thụ – hoa, ba vật thể cách nhau ngàn trùng, cao thấp, lớn bé cũng rất khác nhau nhưng lại đan cài, ôm ấp, nâng đỡ, soi sáng, tôn lên vẻ đẹp của nhau tạo nên một bức tranh nên thơ, sống động, có hồn. Điệp từ “lồng” được nhắc đi, nhắc lại hai lần thật đắt, thật hay bởi nó đã tạo nên âm hưởng ngọt ngào cho câu thơ. Cảnh này có hình vật có ánh sáng và có âm thanh. Trên nền cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ huyền ảo bởi ánh trăng lồng cổ thụ tiếng suối trong xanh như nhạc điệu êm hát mãi không ngừng. Câu thơ của Bác thật giàu giá trị tạo hình như một bức tranh phong cảnh đẹp có tầng lớp. Câu thơ vẽ lên một bức tranh ba tầng với mảng đen trắng lồng gắn vào nhau. Có lẽ bởi tâm hông Bác giàu chất thơ mắt Bác quen nhìn các sự vật trong mối quan hệ giữa tự nhiên biện chứng của húng nên Bác mới có thể phát hiện ra những vẻ đẹp rất tự nhiên của chúng mà rất nhiều người không nắm bắt được những hình ảnh đó.
Nếu như ở hai câu thơ đầu Bác chỉ miêu tả về thiên nhiên thì đến hai câu thư cuối ta thấy được hình ảnh một vị lãnh tụ đang trằn trọc không ngủ:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Hai câu thơ cho chúng ta hiểu rõ thêm được tâm hồn yêu thiên nhiên của Bác nhưng cũng chính thiên nhiên lại khiến cho tâm hồn ấy tằn trọc chẳng thể nào ngủ nổi vì thiên nhiên mà nỗi lo cho đất nước càng dâng cao khiến cho vị lãnh tụ không thể nào chợp mắt. Giua vầng trăng sáng vằng vặc giữa cảnh khuya trong trẻo có một người đang thao thức không yên Người hòa mình vào thiên nhiên để cất tiếng thơ ngợi ca thiên nhiên núi rừng song đó chỉ là giây phút phiêu du vào mây gió còn tâm hồn người thực sự đang gửi gắm ở một chân trời khác: Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà Câu thơ vang lên như một sự bừng tỉnh cho người đọc. Có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khỏa, bớt đi sự vất vả mà hàng giờ hàng phút Bác phải trăn trở suy tư. Từ đây ta nhân thấy Bác là một người luôn biết hài hòa giữa công việc với tình yêu thiên nhiên. Và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dương như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới được tự do để con người thỏa sức ngắm trăng.
Kết luận Phân tích bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh
Bài thơ này được Bác viết trong những năm đầu kháng Pháp vô cùng khó khăn gian khổ. Nhưng ở trong thơ, ta vẫn gặp một chủ thể trữ tình rất yêu thiên nhiên, vẫn ung dung làm việc, vẫn chan hòa cùng ánh trăng thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng trong tâm hồn, Bác vẫn dành cho thiên nhiên những niềm ưu ái, không vì việc quân bận rộn mà Người đành hờ hững, từ chối vẻ đẹp thiên nhiên. Điều này nói lên phẩm chất lạc quan và phong thái ung dung của Bác. Bài thơ thể hiện tâm hồn nhạy cảm, tinh tế và tinh thần trách nhiệm cao cả của Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam; là dẫn chứng chứng minh cho phong cảnh tuyệt với của người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Theo chúng tôi
Dàn Bài Phân Tích Bài Thơ Cảnh Khuya Của Hồ Chí Minh
Dàn bài phân tích bài thơ “Cảnh khuya“ của Hồ Chí Minh
Mở bài:
– Giới thiệu khái quát về tác giả Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc.
– Giới thiệu khái quát hoàn cảnh ra đời của bài thơ: bài thơ được viết năm 1947 – những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, tại chiến khu Việt Bắc.
– Đánh giá: là bài thơ xuất sắc của Hồ Chí Minh.
Thân bài:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa. Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
– Vẻ đẹp của thiên nhiên vào một đêm trăng nơi chiến khu: hình ảnh trăng, hoa, cây cổ thụ, tiếng suối… Hình ảnh thơ cho thấy một đêm trăng khuya đẹp, thơ mộng.
– Nổi bật lên giữa bức tranh thiên nhiên là người chiến sĩ nặng lòng “lo nỗi nước nhà”. (có thể so sánh : Trong thơ cổ, cảnh đẹp thượng đi liền với hình ảnh người ẩn sĩ lánh mình chốn thiên nhiên, xa lánh cõi trần. Nhưng trong bài thơ này nổi bật lên giữa thiên nhiên là hình ảnh một chiến sĩ cách mạng nặng lòng “lo nỗi nước nhà”).
– Cảnh vật thiên nhiên hiện lên mang vẻ đẹp của sự trầm mặc, huyền ảo của ánh trăng khuya. Nó không chỉ có màu sắc vàng yên ả mà nó còn có âm thành của tiếng suối chảy róc rách trong trẻo như tiếng hát vỏng lại từ phía xa.
– Câu thơ thứ ba có dấu phẩy ở giữa như cắt ngang hai sự đối lập nhau. Đối với thiên nhiên hiền hòa lung linh yên bình đẹp như vẽ kia là tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng đầy bất trắc, âu lo không yên bình.
– Người vẫn chưa ngủ chỉ có chưa ngủ thì mới có thể tả hết được cảnh đẹp đêm khuya được. Không phải người thức để ngắm cảnh mà vì Người đang lo nỗi nước nhà.
⇒ Trái ngược với sự hài hòa của thiên nhiên là tâm trạng đầy âu lo của nhà thơ, lo ngày mai chiến tranh, lo ngày mai có giành được độc lập cho dân tộc hay không.
– Tính cổ điển và hiện đại trong phong cách thơ Hồ Chí Minh:
+ Thể thơ đường luật cùng với hình ảnh thiên nhiên làm cho bài thơ có màu sắc cổ điển. Nhưng hình ảnh nhân vật trữ tình “lo nỗi nước nhà” kèm theo sự phá cách trong hai câu cuối đã làm cho bài thơ mang tình hiện đại)
+ Nhận định về giá trị tư tưởng, nghệ thuật của bài thơ: Bài thơ miêu tả cảnh trăng sáng ở chiến khu Việt Bắc trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, qua đó thể hiện tình yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu nước sâu nặng và phong thái ung dung, lạc quan của Bác Hồ
Kết bài:
Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọc, xúc tích, hình ảnh thơ mang màu sắc cổ điển mà bình dị, gần gũi, bài thơ vừa vẽ lên bức tranh thiên nhiên tại chiến khu Việt Bắc hiền hòa với màu sắc của ánh trăng, sống động trong trẻo với âm thanh của tiếng suối, lại vừa thể hiện tâm trạng âu lo của nhà thơ qua đó thấy được tấm lòng đối với thiên nhiên và con người của nhà thơ vĩ đại.
Phân tích bài thơ “Cảnh khuya“ của Hồ Chí Minh
Mở bài:
Bài thơ Cảnh khuya được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1947, khi quân và dân ta đang thắng lớn trên chiến trường Việt Bắc. Sông Lô, Đoan Hùng đã đi vào lịch sử bằng những nét vàng chói lọi đầu tiên của ta trong chín năm kháng chiến chống Pháp. Bài thơ thể hiện cảm hứng yêu nước mãnh liệt dạt dào ánh sáng và âm thanh. Đó là ánh sáng của trăng Việt Bắc, của lòng yêu nước sâu sắc:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ, Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Thân bài:
Cùng với các bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc, Đi thuyền trên sông Đáy, Cảnh khuya thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu nước sâu sắc của Bác trong một đêm trăng nơi núi rừng Việt Bắc.
Hai câu thơ đầu trong bài thơ tả cảnh đêm khuya nơi núi rừng Việt Bắc. Trăng càng về đêm càng sáng. Ánh trăng lan toả bao phủ khắp mặt đất. Đêm vắng, tiếng suối nghe càng rõ. Tiếng suối chảy êm đềm nghe rất trong rì rầm từ xa vọng đến. Cảm nhận của Bác thật tinh tế, nghe suối chảy mà cảm nhận được mức độ xanh trong của dòng nước. Tiếng suối trong đêm khuya như tiếng hát xa dịu êm vang vọng, khoan nhạt như nhịp điệu của bài hát trữ tình sâu lắng. Đó là nghệ thuật lấy động tả tĩnh, tiếng suối rì rầm êm ả, vắng lặng trong đêm chiến khu. Tiếng suối và tiếng hát là nét vẽ tinh tế gợi tả núi rừng chiến khu thời máu lửa mang sức sống và hơi ấm của con người:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”
Sáu trăm năm trước trong bài thơ Bài ca Côn Sơn Ức Trai đã có cảm nhận cực kỳ tinh tế về dòng suối Côn Sơn:
“Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bền tai”
Tiếng suối nghe sao mà êm đềm thơ mộng đến thế. Nó như những giọt của cây đàn cầm vang vọng bên tay. Đầu thế kỷ XX Nguyễn Khuyến đã từng viết về dòng suối như sau:
“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo…”
Mỗi một vần thơ, mỗi một khung cảnh, âm thanh của suối chảy được cảm nhận tinh tế khác nhau. Sau tiếng suối nghe như tiếng hát xa kia là trăng chiến khu. Ánh trăng chiến khu sao mà sáng và đẹp thế. Tầng cao là trăng, tầng giữa là cổ thụ, tầng thấp là hoa – hoa rừng. Cả núi rừng Việt Bắc đang tràn ngập dưới ánh trăng. Ánh trăng bao phủ khắp không trung mát dịu, len lỏi xuyên qua kẽ lá, tán cây, ánh trăng như âu yếm, hoà quyện cùng thiên nhiên cây cỏ. Ánh trăng như xoáy và lồng vào những tán lá. Và trên mặt đất những đoá hoa rừng đang ngậm sương đêm cùng với bóng cổ thụ đan xen trên mặt đất. Đêm thanh, trên không trung dường như chỉ có vầng trăng ngự trị. Đêm vắng, trăng thanh mặt đất cỏ cây như ngừng thở để đón đợi ánh trăng mát lạnh dịu hiền mơn man ôm ấp:
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
Chữ “lồng” điệp lại hai lần đã nhân hoá vầng trăng, cổ thụ và hoa. Trăng như người mẹ hiền đang tiếp cho muôn vật trần gian dòng sữa ngọt ngào. Trăng trở nên thi vị, trữ tình lãng mạn. Chữ lồng gợi cho ta nhớ đến những câu thơ sau trong Chinh phụ ngâm:
“Hoa giãi nguyệt, nguyệt in một tấm Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông, Nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng…”
Trong câu có tiểu đối trăng lồng cổ thụ / bóng lồng hoa tạo sự cân xứng trong bức tranh về trăng, ngôn ngữ thơ trang trọng, điêu luyện tạo nên bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp tràn đầy chất thơ. Cảnh khuya trong sáng, lung linh huyền ảo. Đọc vần thơ ta nghe như có nhạc, có hoạ, bức tranh cảnh núi rừng Việt Bắc thơ mộng biết bao. Người xưa từng nói thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc quả thật không sai. Đối với Bác trăng đã trở nên tri âm tri kỷ nên làm sao có thể hờ hững trước cảnh đẹp đêm nay. Trong ngục tối bị giam cầm, trước ánh trăng tuyệt đẹp Bác Hồ cũng đã có những vần thơ tuyệt diệu:
“Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ…”
(Ngắm trăng)
Một thi sĩ với tâm hồn thanh cao đang sống những giây phút thần tiên giữa cảnh khuya chiến khu Việt Bắc. Giữa bức tranh thiên nhiên rộng lớn và hữu tình như vậy, tâm trạng thi sĩ bỗng vút cao thả hồn theo cảnh đẹp đêm trăng bởi đêm nay Bác không ngủ. Trước cảnh đẹp đêm trăng: có suối, có hoa lá, núi ngàn, và cả tâm trạng của Bác. Bác không chỉ xúc động trước cảnh đẹp thiên nhiên mà:
“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”
Nước nhà đang bị giặc xâm lăng giày xéo, biết bao đồng chí đang bị gông cùm xiềng xích. Cuộc đời còn lầm than cơ cực, bao năm Bác bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ lầm than. Nay nước nhà còn đang chìm trong khói lửa đạn bom lòng Bác sao có thể ngủ yên giấc được. Chưa ngủ không hẳn chỉ vì cảnh đẹp đêm nay mà chưa ngủ vì nỗi nước nhà.
Nỗi nhớ nhà lo cho nước nhà làm cho trái tim Bác luôn thổn thức. Bác thức trong đêm khuya trằn trọc băn khoăn không sao ngủ được. Lòng yêu nước sâu sắc mãnh liệt xiết bao. Đã có biết bao đêm Bác Hồ của chúng ta cũng mất ngủ như vậy:
“Một canh, hai canh, lại ba canh Trằn trọc băn khoăn giấc chẳng thành Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh”
(Không ngủ được)
Hình ảnh sao vàng chính là tự do độc lập, niềm thao thức mơ ngày mai ánh hồng soi đất nước hoà bình. Một tâm hồn nghệ sĩ thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản kiên trung. Cảm hứng thiên nhiên chan hoà với cảm hứng yêu nước tha thiết của Bác.
Kết bài:
Bài thơ Cảnh khuya là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, là một trong những bài thơ trăng đẹp nhất của Bác. Giữa chốn rừng Việt Bắc tràn ngập ánh trăng, lòng Bác luôn thao thức vì nỗi nước nhà. Đó là nét đẹp riêng của bài thơ, cảm hứng thiên nhiên nhiên chan hoà trong lòng yêu nước sâu sắc. Thương dân, lo cho nước, yêu trăng… như dẫn hồn ta vào giấc mộng đẹp. Đọc thơ Bác giúp ta càng biết ơn, yêu kính Bác Hồ hơn.
Soạn Bài Cảnh Khuya Của Hồ Chí Minh
Bác Hồ không chỉ biết đến là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà người còn là một thi sĩ. Minh chứng là Người có rất nhiều sáng tác thơ rất hay và bài thơ “Cảnh khuya” chính là một bài thơ như vậy. Giải Văn cũng sẽ giúp các em có thể nhận ra được vẻ đẹp của bài thơ “Cảnh khuya” trong bài soạn ngày hôm nay.
Bài làm
Câu 1 (Sách giáo khoa trang 142 Ngữ Văn 7 Tập 1): Hai bài Cảnh khuya và Nguyên tiêu được làm theo thể thơ nào? Vận dụng những hiểu biết về thể thơ này qua những bài thơ Đường mà em đã học, hãy chi ra đặc điểm về số tiếng trong mỗi câu thơ, số câu của một bài, cách gieo vần, ngắt nhịp của hai bài thơ nói trên.
Chính ở phần bài phiên âm được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: Bao gồm 4 câu, mỗi câu 7 tiếng và cách gieo vần chân ở câu 1-2-4. Soi xét vào trong bài “Cảnh khuya” đã được Hồ Chí Minh ngắt nhịp 3/4 (câu 1), 4/3 (câu 2 và 3), 2/5 (câu 4). Trong bài “Rằm tháng giêng” cũng đã ngắt nhịp 4/3 toàn bài.
Câu 2 (Sách giáo khoa trang 142 Ngữ Văn 7 Tập 1): Phân tích hai câu đầu của bài thơ Cảnh khuya.
Trong hai câu thơ đầu bài “Cảnh khuya” thì Bác cũng đã miêu tả cảnh trăng sáng về khuya với cách so sánh thể hiện được một sự tinh tế tạo sự trẻ trung, gần gũi. Thêm đó cũng chính là hình ảnh đẹp và lãng mạn “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Đây được xem là một không gian lung linh, huyền ảo, sống động ánh trăng.
– Ở hai câu cuối của bài thơ “Cảnh khuya” cũng chính là sự biểu hiện sự say mê vẻ đẹp thiên nhiên của tác giả Hồ Chí Minh. Bác Hồ cũng chưa ngủ không chỉ vì thiên nhiên tươi đẹp mà chính còn vì tấm lòng lo dân lo nước.
– Chúng ta nhận thấy được chính trong hai câu ấy có từ “chưa ngủ” mà lại được lặp lại, đó trước hết cũng chính là những nỗi băn khoăn về vận nước, đó là tấm lòng thiết tha vì dân vì nước của Bác.
Bài thơ “Rằm tháng giêng” dường như cũng đã miêu tả một không gian rộng lớn với bầu trời, mặt nước, thêm vào đó được xem chính là dòng sông như nối liền, trải rộng cũng đã được miêu tả khái quát từ gần tới xa, miêu tả từ thấp lên cao.
– Tiếp đến chính với câu thơ thứ hai lặp lại ba lần chữ “xuân” dường như cũng đã thể hiện sự tràn đầy sắc xuân, sức xuân hay đó chính là một sức sống ùn ùn trỗi dậy và chính mùa xuân chuyển động lớn dần, lớn dần lên rất nhiều.
Bài thơ “Nguyên tiêu” cũng đã gợi nhớ đến bài thơ Phong kiều dạ bạc của Trương Kế ở trong thơ cổ Trung Quốc.
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền (trong Phong kiều dạ bạc) so với câu thơ Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền (trong bài thơ Nguyên tiêu). Tất cả cũng đã đều nói về lúc đêm khuya, về thuyền, về sông nước.
Thông qua hai bài thơ biểu hiện tâm hồn thơ mộng, yêu thiên nhiên, say đắm, hòa mình vào ánh trăng núi rừng. Bài thơ cũng đã thể hiện được một phong thái ung dung, tinh thần lạc quan của Bác.
– Hình ảnh trăng trong Cảnh khuya: Đó chính là cảnh trăng ngàn gió núi, cảnh lung linh huyền ảo quấn quýt hòa quyện với nhau.
– Hình ảnh trăng trong Rằm tháng giêng: Được đánh giá chính là trăng xuân, cảnh trăng trên sông, hình ảnh con thuyền nhỏ, không gian bát ngát tràn sức xuân.
Soạn bài Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh
Chúng ta nhận thấy được một số bài thơ, câu thơ của Bác Hồ viết về trăng hoặc thiên nhiên:
– Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe của ngắm nhà thơ
(Ngắm trăng – Nhật kí trong tù)
– Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không
(Chiều tối – Nhật kí trong tù)
Chúc các em học tốt!
Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Cảnh Khuya Của Tác Giả Hồ Chí Minh trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!