Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Bài Thơ Thơ Duyên Của Xuân Diệu mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
(Văn mẫu lớp 11) – Em hãy phân tích bài thơ “Thơ duyên” của Xuân Diệu (Bài văn phân tích của bạn Trần Thị Tuyết lớp 11A1 trường THPT chuyên Bắc Ninh).
Trong “lời đưa duyên” đầu tập thơ “Thơ thơ” của Xuân Diệu, ông viết: “Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân và đây là tuổi xuân của tôi nữa… Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Câu dẫn khiến tôi nghĩ tới bài thơ “Thơ duyên” – một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu được người đời gọi bằng cái tên trìu mến “ông Hoàng thơ tình”. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu đâu chỉ đơn thuần là tình yêu đôi lứa, nó còn biểu hiện phong phú và tinh tế hơn. Trong bài “Thơ duyên” cũng vậy, thi phẩm nhắc đến “duyên”, song không phải lương duyên, nhân duyên hay duyên phận. Nó là sự gắn bó hòa hợp tự nhiên lòng người với thiên nhiên, vũ trụ nên mới tạo ra một mối “duyên” đẹp như “thơ”.
Trước hết, Xuân Diệu bắt đầu bài thơ bằng bức tranh thiên nhiên đầy sức sống:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
Trong không gian chiều, khoảng thời gian gợi buồn, là lúc một ngày sắp kết thúc, con người thèm được nghỉ ngơi thì Xuân Diệu lại vẽ một bức tranh thiên nhiên không ngơi nghỉ. Tiếng chim vẫn tiếp tục véo von, cây hoa vẫn xanh mướt, mọi vật khi thu sang cựa quậy sinh động. Những câu thơ Tây quá! Xuân Diệu thoát ra khỏi hoàn toàn ý niệm chung về không gian và thời gian, chỉ để trái tim sống động này được tươi trẻ. Thế nên mới có một buổi chiều là “chiều mộng” chứ không phải chiều thực chăng?
Tiếp tới, thi sĩ thu hẹp không gian hơn, mọi thứ như gần gũi và chân thực hơn:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”
Ấy vậy thôi, chứ những câu thơ vẫn “mộng” lắm. Cái nét “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” kia làm không gian như đang tan ra theo lời thơ. Chẳng thế mà Hoài Thanh nhận xét “Nó chỉ mất một ít rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng”. Hơn nữa, nội tâm còn như đang hóa thành ngoại giới khi mà mới chỉ nghe “ý bạn” thôi mà cũng thấy được “nỗi thương yêu” rồi. Thật vậy, Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn”.
Đến hai khổ thơ tiếp, ta không còn thấy sự hòa hợp giữa lòng người và cảnh vật nữa mà là sợi dây giao cảm giữa lòng người với lòng người:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần.
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.
Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Bề ngoài, hai nhân vật xuất hiện trong khổ thơ như là xa lạ lắm “em bước điềm nhiên”, “anh đi lững đững” thế nhưng lòng người thì lại như “một cặp vần” hòa hợp với nhau. Thiên nhiên cũng như rơi vào cảm xúc chung ấy. “Gấp gấp” là từ láy chỉ sự khẩn trương, sôi nổi, say đắm tiến tới tình yêu. Còn “phân vân” chỉ sự e dè, dùng dằng, chẳng dứt. Hơn nữa, con người lại có đôi chút lo sợ và dự cảm. Thế nên chim không bay, nó “nghe” ra được là trời rộng. Một chút “lạnh” chiều sương giăng thể hiện nỗi băng giá trong lòng người. Như vậy, Xuân Diệu đã thực hiện nội tâm hóa cảnh giới, thổi hồn mình và hồn tạo vật.
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Cuối cùng, khổ thơ cuối kết thúc với niềm bộc bạch trực tiếp của nhân vật. Sự gắn bó hòa hợp lên cao tới mức không còn là “rung động”, yêu đương nữa mà đã như là “cưới” rồi. Cái cưới này là cưới của “lòng anh” và “lòng em”, là cái cưới trong tâm tưởng. Cái khát khao được giao cảm bộc lộ thật chân thật và trần thế. Chẳng phải một Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ Mới” ở đây chứ đâu nữa?
Tóm lại, bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu đã chứng minh một phong cách rất Tây, rất Mới thông qua hình ảnh, ngôn từ, diễn đạt, nhịp điệu… mới mẻ và tinh tế. Có lẽ, “Thơ duyên” chính là cách riêng của Xuân Diệu làm đẹp cho đời và thể hiện tâm hồn riêng của mình. Thế nên, có ai đó đã bình “Với bài “Thơ duyên”, Xuân Diệu thực sự đã làm duyên với cuộc đời và sự làm duyên ấy chính là duyên thơ”.
Bình Giảng Bài Thơ Duyên Của Xuân Diệu
I. Mở bài
Thuở sinh thời, Xuân Diệu đã từng công nhận đặc sản của tôi là thơ tình yêu.
Nhà thơ còn có ý định xếp thơ thành một từ điển tình yêu. Trong cuốn từ điển ấy, Thơ duyên sẽ được coi là khúc dạo của trái tim buồn lần đầu rung động.
Duyên trong tựa bài thơ, trước hết được hiểu theo nghĩa thông thường là sự gặp gỡ, hòa hợp một cách tự nhiên. Đọc toàn bài thơ ta nhận thấy Xuân Diệu không chỉ bằng lòng khát khao giao cảm với cuộc đời mà còn muốn gửi gắm trong chữ duyên ấy sự hòa hợp diệu kì của vũ trụ. Thơ duyên là cái đẹp của sự gặp gỡ, giao cảm, là bài ca giữa thiên nhiên và thiên nhiên, thiên nhiên và con người, con người với con người.
2. Khổ thơ một.
– Sự hợp tác ấy trước hết được nhà thơ tả thực ở cảnh chiều thu:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền,
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.
Cảnh chiều ấy có đường nét mềm mại của nhánh duyên, có âm thanh ríu rít, có hình ảnh quấn quít của cặp chim, có màu sắc ngọt ngào của đất trời. Nhưng cái hay của buổi chiều này không phải ở từng chi tiết, từng hình ảnh mà là ở sự hòa hợp giữa tạo vật. Tất cả đường nét, hình ảnh, màu sắc, âm thanh tương giao với nhau, tạo nên một chiều mộng mơ hồ, bàng bạc trong không gian và tiếng huyền say đắm lòng người. Tiếng huyền không phải là một âm thanh cụ thể, không được nghe bằng thính giá mà âm thanh của cảm xúc. Cái dào dạt của trời thu, cái bâng khuâng của lòng người hòa nhau tạo nên cái tiếng huyền kì diệu đó.
– Các chi tiết đều được cách điệu bằng những từ ngữ gợi cảm và táo bạo, thể hiện một lối cảm quan rất riêng biệt của Xuân Diệu, như nhánh duyên, chiều mộng, tiếng huyền.
3. Khổ thơ hai và ba.
– Các từ láy: nho nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vừa gợi đường nét mềm mại của cảnh vật, vừa gợi nỗi quyến luyến trong lòng người khi lắng nghe sự giao hòa bí ẩn của trời đất.
– Cảnh hữu tình: Có con đường, có gió, có nắng nhưng bằng định ngữ đi kèm lại có sức gợi cảm. Bởi thế, Hoài Thanh có nhận xét: Chính là hai câu tả cảnh như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều mơ mộng.
Trong niềm rung động ấy, với một năng lực giao cảm kì diệu, những con người xa lạ dường như có sự gắn kết tương giao:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần.
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.
4. Khổ thơ bốn.
Thời khắc trôi qua, hoàng hôn xuống dần. Cảnh hoàng hôn được tả với những thi liệu trong thơ cổ như: mây trôi, cánh chim về tổ, con cò trên ruộng… gợi nhớ câu thơ của Vương Bột (Trung Quốc):
Lạc hà dữ cô lộ tề phi
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
(Ráng chiều cùng cánh cò lẻ loi bay lên,
Nước thu cùng bầu trời một màu)
Như Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam có lưu rằng, giữa cánh cò của Vương Bột và Xuân Diệu có sự khác nhau hơn một nghìn năm và của hai thế giới. Vì thế, khổ thơ mang âm hưởng Đường thi nhưng nội dung cảm xúc, cách biểu hiện khác xa thơ cổ. Xúc cảm của nhà thơ trước thiên nhiên là sự hòa nhập, không tách mình ra khỏi vũ trụ. Còn ở nhà Thơ mới Xuân Diệu, cảnh vật và con người, cảnh vật và cảnh vật tuy có mối tương giao nhưng không hòa tan. Cách biểu hiện trong thơ cổ thường trầm tĩnh, lặng lẽ, còn tâm trạng trong Thơ mới thường bộc lộ sự sôi nổi, ý thức rõ rệt cái tôi cá nhân. Vì thế, những từ gấp, phân vân, nghe, giăng tràn đầy nỗi xao xuyến, hối hả thúc giục, sợ hãi như chạy đua với thời gian.
5. Khổ thơ cuối.
Cảm nhận cái dịu dàng của buổi chiều thu, nhà thơ đương thời cũng nhận ra sự giao cảm của lòng người. Cái ngơ ngẩn của buổi chiều cũng là cái ngơ ngẩn của cõi lòng khi bắt gặp sự rung động đồng điệu:
Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Vậy là, thiên nhiên đã trở thành chất xúc tác cho tình duyên của con người và cũng chỉ có Xuân Diệu mới dùng từ táo bạo đến thế:
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Từ cưới đã diễn tả được đỉnh cao của sự giao cảm.
III. Kết luận
Tâm trạng bao trùm trong bài thơ là những rung động xôn xao, những xúc cảm tinh tế trước những biến thái tinh vi, mơ hồ của sự sống trong tự nhiên và lòng người. Cảnh vật thơ mộng của môi trường hòa điệu nhịp nhàng đã khơi dậy trong lòng người niềm khát khao giao cảm thầm kín mà mạnh mẽ, có tác dụng gắn kết những tâm hồn.
Như vậy, trơng bài Thơ duyên nói riêng và thơ Xuân Diệu nói chung, thiên nhiên không chỉ chi phối tâm trạng con người như trong thơ cổ mà còn có khả năng đánh thức tâm linh con người, những khát khao thầm kín để con người được sống đầy đủ, sâu sắc hơn, với tất cả giác quan, cảm xúc, cảm giác của mình.
Cái Hay Cái Đẹp Trong Bài Thơ Duyên Của Xuân Diệu
Cái hay cái đẹp trong bài thơ Duyên của Xuân Diệu
Hướng dẫn
Cái hay cái đẹp trong bài thơ Duyên của Xuân Diệu
Xuân Diệu là nhà thi sĩ của tình yêu và tuổi trẻ chính vì thế những sáng tác của ông đã khiến cho biết bao con tim của những người trẻ tuổi chung một nhịp đập một khát vọng tới bùng cháy. Và một trong những nỗi khát khao đó phải nói tới tình yêu đôi lứa. Thành công ở đề tài này, Xuân Diệu đã có bài thơ Duyên vô cùng đặc sắc với những nét chấm phá. Bằng cái hay cái đẹp của bài thơ “ Duyên” tác giả mang tới cho người đọc người nghe những cung bậc của buổi mới quan nhau.
Trước hết cái hay cái đẹp của bài thơ Duyên được thể hiện qua hình ảnh của một buổi chiều thu vô cùng ướt át và lãng mạn
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền. ”
Chính cái duyên cái tình yêu một thời của tuổi trẻ ấy đã khiến cho những con người bắt gặp tình yêu đã vội quyến luyến. dưới con mắt của một người đang yêu thì những thứ họ nhìn thấy được đều vô cùng đẹp và đầy cảm xúc biết bao nhiêu.
Chính cái duyên mà tình yêu mang lại đã khiến cho thiên nhiên và cảnh vật đều nhuốm một màu yêu thương và đẹp đẽ, mọi thứ đều tràn trề sức sống. chúng ta có thể thấy như hình ảnh cây me thì ríu rít những cặp chim chuyền cành, màu trời kia như ai đổ lên những màu xanh ngọc qua muôn lá.
Mỗi mùa mang một thức một dáng dấp riêng. Nếu như người ta yêu mùa xuân với những vẻ non tơ thì người ta lại tới với mùa thu với sự lãng mạn và da diết có chút đượm buồn. hay nghĩ tới mùa hè thì chính là nghĩ tới hình ảnh rộn rã tiếng ve và những màu sắc tươi mới.
Và âm thanh được tác giả sử dụng chính là tiếng huyền. mùa thu xuất hiện với tiếng huyền. một tiếng huyền khiến cho tâm hồn con người như nhẹ bỗng với mọi thứ, tâm hồn như lâng lâng khó tả và cảm xúc thì bộn bề
Cái duyên trong lòng người hay chính là cái duyên của đất trời đã tạo ra cái duyên cho tình yêu đôi lữa. mọi thứ rất dịu ngọt âm thanh bay bổng và có lúc lại ngân dài theo những tiếng động và bước chuyển của thời gian.
Tiếp nối những câu thơ của tác giả chúng ta lại bắt gặp những hình ảnh tinh tế tiếp theo như:
“Con đường nho nhỏ, gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn.
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”
Bằng những tính từ láy tác giả như diễn tả từng cung bậc cảm xúc một cách nhẹ nhàng và cũng hết sức tinh tế. đó chính là con đường nhỏ gió hiu hiu thổi và hoa và nắng như quyện vào nhau tạo nên một khung cảnh thật say đắm lòng người. Con đường đó, ngọn gió đó hoa đó nắng đó hay chính là cái cớ để bày tỏ nỗi lòng thương yêu dấu kín bấy lâu. Cho dù như thế nào thì con người cũng có cái gì đó để làm cho cảm xúc bản thân thăng hoa, và khi nói tới cái yêu thương bộc phát ở trong lòng làm sao người ta không bị tác động bởi ngoại cảnh lãng mạn ấy chứ?
Một tình yêu bắt đầu được nung nấu và ấp ủ bởi ả “anh và em:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần,
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần. ”
Trước sự dịu dàng của thiên nhiên mọi thứ thật tinh tế và đẹp đẽ biết bao nhiêu, những thứ mà chúng ta thấy thực chất là tâm lí của những con người đang yêu. Em bước trước anh lững thững theo sau, cố làm ra vẻ vô tâm nhưng thực chất lại là muốn người kia chú ý tới, và câu thơ cuối bài như giải thích rõ” anh em với cặp vần” một hình ảnh đối rất chỉnh rất đẹp
Bài thơ duyên của Xuân Diệu với những chất liệu tạo dựng từ cuộc sống đã khiến cho người đọc đặc biệt những đôi lứa đang yêu bắt gặp hình ảnh và cảm xúc của mình trong đó. Bởi vậy mà người ta mới cho rằng Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu và tuổi trẻ. Thơ của ông thấm đẫm chữ duyên mà người đời ban tặng.
Phân Tích Khổ Cuối Bài Thơ Vội Vàng Của Xuân Diệu
Khổ cuối của bài thơ Vội vàng để lại cho bạn những ấn tượng gì? hãy xem bài viết phân tích khổ cuối bài thơ Vội vàng do tác giả chúng tôi tự biên soạn duy nhất tại website này.
Mỗi nhà thơ đều lấy cho mình nhũng dư vị để làm chất riêng cho chất thơ của mình. Nếu Huy Cận là say mê bất tận với cảnh sắc và không gian, Xuân Quỳnh là những rạo rực đắm chìm trong tình yêu thì khi đến với Xuân Diệu ta lại thấy được sự hưng phấn, cuồng si tột độ với những khoảnh khắc lí thú chảy trôi của thời gian. Nỗi niềm ấy được bộc lộ rõ nét qua lời thơ Vội vàng, và đặc biệt qua khổ thơ cuối:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Guồng chảy của thời gian cứ thế chảy trôi, cuốn đi những thanh sắc tươi đẹp của cỏ cây đất trời. Vì yêu vì đắm say mà hơn ai hết Xuân Diệu cảm nhận xiết bao từng khoảnh khắc quý giá ấy để rồi bâng khuâng:
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Những câu thơ 8 chữ bỗng ngắt lại nhường chỗ cho câu thơ 3 chữ. Giọng thơ trở lên dục dã, rạo rực như chính nỗi lòng thiết tha của nhà thơ. Danh từ xưng hô Tôi đến đây đã chuyển sang ta, ta vừa là cái tôi thi nhân vừa chỉ cái ta chung của tất cả mọi người. Cái tôi cá nhân đã hòa chung với cái ta chung cộng đồng nói lên khát vọng, hoài bão lớn lao. Cuộc đời người mấy ai chả mong được sống mãi với tuổi trẻ căng tràn, mơn mở như nụ xuân mới nhú; ai chả ước ao được níu giữ mãi tuổi xuân nồng nàn, đời xanh hừng hực đam mê cháy. Song nào đâu cứ ôm là được cứ giữ là trọn vẹn nên ta cần phải “riết” để níu giữ gần hơn nữa:
” Ta muốn riết mây đưa và gió lượn”
Ôm là chưa đủ để níu giữ bước chân chuyển dịch thời gian mà chúng ta phải xiết chặt cái đáng giá vào lòng. Mây đưa gió lượn là sự chuyển dịch tuần hoàn của thời gian, là thứ hữu hình, lớn lao thế nhưng nhà thơ lại muốn riết chặt vào tim. Phải chăng nhà thơ muốn ôm cho kì hết những gì của thiên nhiên đất trời vào trong lòng. Và rồi ôm rồi riết thôi vẫn chỉ là những biểu hiện bên ngoài nhà thơ còn muốn cả tâm hồn mình ngự trị:
” Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,“
Bướm và tình yêu là biểu trưng cho sự ngọt ngào, nồng cháy, lãng mạn. Xuân Diệu khao khát biết mấy được đắm say trong ly rượu dịu nhẹ, nồng nàn của tình yêu đất trời. Nhưng dù say đến mấy thì vẫn là sự tồn tại độc lập giữa 2 chủ thể chỉ cho đến câu thơ tiếp theo người và cảnh mới thực sự quấn quýt, hòa điệu cùng nhau:
Và non nước, và cỏ cây và cỏ rạng”
” Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Không chỉ là cảm giác, xúc giác nhà thơ dùng cả vị giác để lột tả hết cái đam mê tột độ của mình. Nhà thơ dùng ” cái hôn nhiều” để thưởng thức cảnh vật để thu vào lòng hết hương vị của cỏ cây, hơi thở của núi sông, vạn vật.
Nhưng với một tâm hồn đầy thi vị và nhạy cảm như Xuân Diệu thì điều đó đâu là đủ để thỏa mãn ông. Đã tận hưởng thì phải tận hưởng cho kì hết, cho thỏa cái thú vui lãng mạn. Bởi thế mà suy nghĩ cũng biến thành ý thơ:
Cho no nê thanh sắc của thời tươi“
” Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Tình cảm của nhà thơ đến đây đã dâng lên đến tột độ. Xuân Diệu như muốn ôm, muốn riết cho hết và muốn say muốn thâu với tạo hóa để được cảm nhận những dư vị ngọt ngào, để được ánh sáng và thanh sắc đời xuân tắm mát. Tâm hồn nhà thơ như được tắm táp hả hê, thỏa thê, trọn vẹn, sung mãn với âm thanh, mùi vị, ánh sáng, hương vị rạo rực đất trời.
Trong niềm hưng phấn tột độ ấy, nhà thơ bất chợt buông một dấu chấm lửng:
” Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”
Nhà thơ nhận ra mùa xuân, tuổi trẻ giống như một trái chín đỏ mọng, căng tràn, quyến rũ , ngọt ngào, và đầy hấp dẫn khiến nhà thơ không nén nổi lòng mình mà thẳng thắn mạnh bạo, khao khát được ” cắn”. Càng say mê quấn quýt với thiên nhiên Xuân Diệu lại càng sợ thiên nhiên biến mất và càng sợ mất lại càng mãnh liệt được làm chủ, níu giữ vĩnh cửu.
Với cách sử dụng ý thơ theo cấp độ tăng tiến, sử dụng từ ngữ mạnh bạo, giàu sức gợi sức tả kết hợp với nhịp điệu hồ hởi, vồ vập, giục giã đoạn thơ đã diễn tả quan niệm nhân sinh tiến bộ và mới mẻ của Xuân Diệu. Với ông thiên nhiên đẹp nhất vào mùa xuân cũng giống như đời người đẹp nhất là tuổi trẻ, tuổi trẻ được tô vẽ với tình yêu mãnh liệt. Con người sống là phải biết trân trọng từng giây phút đáng giá được sống đừng để đến khi chực chào mất đi mới thấy quý báu, thấy hối tiếc và đớn đau. Nhịp tim và nỗi lòng trăn trở của tác giả đã được gửi gắm vào từng câu từng chữ và từng ý trong bài thơ, trở thành quan niệm sống có ý nghĩa và sức lan tỏa lâu bền.
Bạn đang xem bài viết Phân Tích Bài Thơ Thơ Duyên Của Xuân Diệu trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!