Xem Nhiều 3/2023 #️ Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu # Top 7 Trend | Anhngucongdong.com

Xem Nhiều 3/2023 # Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu # Top 7 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Phân tích tình đồng chí qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu ra đời cách đây hơn 30 năm, cho đến nay, vẫn là một bài thơ mà em ưa thích bởi nó giúp em hiểu thêm được vì sao quân đội ta đã trở thành một quân đội anh hùng.

Đọc bài thơ, em bắt gặp những anh bộ đội đã có một cuộc đời, một quê hương nghèo khổ, nào là “nước mặn đồng chua”, nào là “đất cày lên sỏi đá” nào là “gian nhà không”. Đến khi vào bộ đội, họ cũng chẳng giàu có gì hơn, cũng “áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá” và “chân không giày…”. Đã thế, còn bị những cơn sốt rét rừng hành hạ.

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi.

Lại phải sống cảnh “rừng hoang sương muối”. Bao nhiêu thiếu thốn về vật chất! Phải nói là cực kì gian khổ. Nhưng trong suốt bài thơ, em không hề nghe một lời than, hay cảm thấy ở họ một phút chán chường, dao động. Trái lại, bao trùm lên cuộc sống, thấm đượm trong từng trái tim của họ là mối tình đồng chí keo sơn, là niềm tin ở chính mình, ở đồng đội.

Tình của những người nông dân chân lấm tay bùn, sông ở mọi vùng quê của đất nước, nghe tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, họ nhanh chóng có mặt trong đoàn quân – chiến sĩ:

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Từ xa lạ đến chỗ thân quen, họ không cần chờ thời gian, năm tháng, bởi vì họ đang tập hợp dưới ngọn quân kì, bởi vì họ đã gặp nhau ở mục đích của cuộc ra đi. Lí tưởng chiến đấu gắn bó họ lại với nhau và họ nhanh chóng trở thành “đồng chí”; “Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

Chính vì cùng chung một lí tưởng cùng sông trong tình đồng chí mà họ sẵn sàng chia ngọt, sẻ bùi: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh”. Họ động viên nhau vượt qua mọi gian khổ “miệng cười buốt giá” và “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

Cuộc sống chiến đấu đã xây đắp nên tình đồng chí cao đẹp đó. Và cũng chính tình đồng chí giúp họ tạo nên sức mạnh và niềm tin cho mỗi con người – chiến sĩ và cho cả đoàn quân. Một tư thế sẵn sàng chiến đấu, một tinh thần lạc quan tin tưởng, một biểu tượng rất cao đẹp của người lính cụ Hồ:

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.

Đây là đỉnh cao của tình đồng chí. Vì nếu đêm nay giữa “rừng hoang sương muối” mà Anh hoặc Tôi không “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” thì mọi tình cảm thân ái như “chung chăn”, áo rách quần vá “thương nhau tay nắm lấy bàn tay” còn có ý nghĩa gì? Câu thơ này có một từ bình thường nhưng không thay thế được đó là từ “đứng”. Có nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ này và sửa lại thành “ngồi”. “Đứng” là thường trực chiến đấu mà “ngồi” là nghỉ ngơi. Với lại từ “đứng” có âm “đ” cứng, thanh trắc (dấu sắc) mạnh phô diễn được sức mạnh của tình đồng chí ở đỉnh cao. Nói như thế, nhà thơ cảm thấy hãy còn hữu hạn nên đã chọn một ấn tượng cho cái vô cùng của tình đồng chí:

“Đầu súng trăng treo”

Lãng mạn thay, súng và trăng cũng là một cặp đồng chí! Cặp đồng chí này (súng và trăng) nói về cặp đồng chí kia (tôi và anh), nói được cái cụ thể và gợi đến vô cùng súng và trăng, gần và xa “Anh với tôi đôi người xa lạ, tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Súng và trăng, cứng rắn và dịu hiền; súng và trăng, chiến sĩ và thi sĩ; súng và trăng…là biểu hiện cao cả của tình đồng chí.

Sự kết hợp yếu tố hiện thực, tươi rói với tính chất lãng mạn trong trẻo là màu sắc mới mẻ mà Chính Hữu đã sớm mang lại cho thơ ca kháng chiến, thi ca cách mạng.

Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Tác Giả Chính Hữu

Đồng chí là bài thơ viết về tình đồng đội, đồng chí trong chiến tranh. Em hãy phân tích tình đồng chí qua bài thơ ” Đồng chí “ của Chính Hữu để thấy được những biểu hiện cụ thể của mối quan hệ thiêng liêng này.

1. Mở bài

Giới thiệu bài thơ: Đọc bài thơ “Đồng chí”, ta thấy được một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao đẹp xuyên suốt bài thơ. Đó là tình đồng chí, đồng đội, keo sơn gắn bó, bình dị mà sâu sắc.

2. Thân bài

– Cơ sở để hình thành nên tình đồng chí trong những năm tháng kháng chiến gian khổ:

+ Thứ nhất, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân.

+ Cơ sở thứ hai để hình thành nên tình đồng chí là chung nhiệm vụ, lý tưởng chiến đấu. Đó là nhiệm vụ cùng sát cánh bên nhau để đánh đuổi kẻ thù giành lại độc lập cho Tổ quốc thân yêu

– Với nghệ thuật hoán dụ “súng – đầu” vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có mang ý nghĩa tượng trưng: súng tượng trưng cho chiến đấu, đầu tượng trưng cho lý tưởng, như vậy,cùng chung mục đích, lý tưởng họ càng trở nên gần gũi nhau hơn.

– Người lính “chung chăn” là chung cái khắc nghiệt, khó khăn, nhất là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh, từ sự sẻ chia ấy, họ đã trở thành đôi tri kỉ.

– Trong những năm tháng khốn khó, gian lao ấy, tình đồng chí thiêng liêng, cao cả biết chừng nào, cùng chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

– Những người lính, họ thấu hiểu về cảnh ngộ và nỗi bận lòng của nhau. Gia cảnh neo người của người đồng đội: khi họ vào lính phải gửi bạn, gian nhà không, không người chăm chút.

– “Mặc kệ”đã thể hiện thái độ kiên quyết, dứt khoát ra đi đồng thời thể hiện sự hi sinh cao cả của các anh.

– Rét buốt, lạnh lẽo là vậy nhưng người lính vẫn hiện lên với một tư thế thật đẹp: “chờ giặc tới”. Đó là tư thế chủ động chờ giặc với một tâm hồn ung dung và thanh thản đến lạ kì.

– Đặt súng cạnh trăng, ta thấy dường như nó nói lên ý nghĩa của cuộc chiến: người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình. Súng là chiến sĩ, là thực tại, còn trăng là thi sĩ, là mơ mộng, tất cả bổ sung, hài hòa cho nhau như tâm hồn người lính Cách mạng.

3. Kết bài

Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ độc đáo viết về những người nông dân mặc áo lính. Bài thơ còn là một tượng đài chiến sĩ cao cả, thiêng liêng.

II. Bài tham khảo cho đề phân tích bài thơ Đồng chí

Đọc bài thơ “Đồng chí”, ta thấy được một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao đẹp xuyên suốt bài thơ. Đó là tình đồng chí, đồng đội, keo sơn gắn bó, bình dị mà sâu sắc.

Trước hết, “Đồng chí” cho người đọc thấy được những cơ sở để hình thành nên tình đồng chí trong những năm tháng kháng chiến gian khổ. Thứ nhất, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,”

Anh với tôi đều là những người lính ra đi từ những miền quê nghèo, lam lũ: anh ở nơi “nước mặn đồng chua”, còn tôi ở nơi “đất cày lên sỏi đá”, tất cả đều là những vùng miền khó khăn. Việc tác giả sử dụng thành ngữ giúp người đọc hình dung đó là những miền quê nghèo khó, cùng với nghệ thuật đối đã diễn tả sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, cả hai cùng chung cái nghèo. Chính điều đó đã khiến họ từ mọi phương trời xa lạ, tập hợp lại trong hàng ngũ quân đội và trở nên thân quen nhau hơn. Cơ sở thứ hai để hình thành nên tình đồng chí là chung nhiệm vụ, lý tưởng chiến đấu. Đó là nhiệm vụ cùng sát cánh bên nhau để đánh đuổi kẻ thù giành lại độc lập cho Tổ quốc thân yêu.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.

Với nghệ thuật hoán dụ “súng – đầu” vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có mang ý nghĩa tượng trưng: súng tượng trưng cho chiến đấu, đầu tượng trưng cho lý tưởng, như vậy,cùng chung mục đích, lý tưởng họ càng trở nên gần gũi nhau hơn. Bên cạnh đó còn nghệ thuật điệp ngữ “súng, đầu, bên” diễn tả sự sát cánh bên nhau của các anh bộ đội. Và cơ sở thứ ba để hình thành tình đồng chí đó là cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, cùng chung cái khó khăn của cuộc đời người lính. Đêm núi rừng Việt Bắc rất lạnh, người lính lại thiếu thốn đủ thứ nên họ phải đắp chung một chiếc chăn. Người lính “chung chăn” là chung cái khắc nghiệt, khó khăn, nhất là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh, từ sự sẻ chia ấy, họ đã trở thành đôi tri kỉ. Và cái quan trọng nhất chính là câu thơ cuối khổ “Đồng chí!”. Đây là một câu đặc biệt, nó như một nốt nhấn của bản đàn, vang lên như một phát hiện, một tiếng gọi thiết tha, xúc động từ trong tim, đồng thời như một tấm bản lề khép mở hai phần của bài thơ.

Và trong những năm tháng khốn khó, gian lao ấy, tình đồng chí thiêng liêng, cao cả biết chừng nào, cùng chia sẻ tâm tư, nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Những người lính, họ thấu hiểu về cảnh ngộ và nỗi bận lòng của nhau. Gia cảnh neo người của người đồng đội: khi họ vào lính phải gửi bạn, gian nhà không, không người chăm chút. Ta thấy hình ảnh gian nhà không và gió lung lay không chỉ gợi cái nghèo xơ xác mà còn thể hiện cái trống vắng, hoang lạnh khi vắng đi bàn tay chăm chút của người đồng đội. Thấu hiểu ý chí lên đường, cuộc tình yêu nước khi Tổ quốc cần, họ sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư. “Mặc kệ”đã thể hiện thái độ kiên quyết, dứt khoát ra đi đồng thời thể hiện sự hi sinh cao cả của các anh. Thấu hiểu nỗi nhớ quê hương da diết: nghệ thuật nhân hóa, hoán dụ tượng trưng cho không gian làng quê, ẩn dụ chỉ chỉ những con người nơi quê nhà. Tiếp theo là bảy câu thơ sau:

“Anh với tôi biết ừng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Từng trải qua sự hành hạ của những cơn sốt rét rừng, cùng quan tâm lo lắng đến nhau, hơn nữa là sự thiếu thôn quân trang, quân bị. Với nghệ thuật liệt kê, hình ảnh thơ chân thực, không tô vẽ đã diễn tả những khó khăn chồng chất và thể hiện sự sẻ chia những khó khăn, gian khổ. Gian khó là vậy nhưng tình đồng chí vẫn sáng ngời với câu thơ cuối khổ hai. Ta thấy đố không phải cái nắm tay thông thường mà là cái nắm tay thắm tình đồng chí, đồng đội. Trong cái nắm tay không lời kia, dường như bao buốt giá bỗng tan, bao cơn sốt rét bỗng ngừng, bao nhiêu hơi ấm như lan tỏa.

Cuối cùng là biểu tượng cao đẹp nhất của tình đồng chí, một bức tranh đẹp thắm tình đồng đội.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

Bức tranh đẹp ấy nó được hiện lên trên nền thời gian và không gian cụ thể. Thời gian là đêm nay, đêm trước một trận đánh lớn, còn không gian là rừng hoang sương muối, sương muối làm chân các anh lính tê cứng lại đến nỗi mất cảm giác. Dường như thời gian và không gian ấy đã tái hiện không khí căng thẳng, lúc này người lính phải đối mặt với những mất mát, hi sinh khó tránh khỏi. Rét buốt, lạnh lẽo là vậy nhưng người lính vẫn hiện lên với một tư thế thật đẹp: “chờ giặc tới”. Đó là tư thế chủ động chờ giặc với một tâm hồn ung dung và thanh thản đến lạ kì. Trong giây phút đầy cam go ấy, giữa sự sống và cái chết rất mong manh, họ vẫn thưởng thức vẻ đẹp của vầng trăng. Chính tình đồng chí, đồng đội là sức mạnh vững chãi để họ ” đứng cạnh bên nhau”, giúp họ vượt lên thực tế gian khổ của cuộc chiến, họ vẫn luôn kề vai sát cánh bên nhau. Và hơn hết là biểu tượng cao đẹp về cuộc đời người lính, với câu thơ cuối cùng, ta vừa thấy được hình ảnh thực được nhận ra từ những hành quân phục kích giặc nhưng cũng vừa thấy được hình ảnh tượng trưng: súng là biểu tượng của chiến tranh, trăng là biểu tượng của hòa bình. Đặt súng cạnh trăng, ta thấy dường như nó nói lên ý nghĩa của cuộc chiến: người lính cầm súng để bảo vệ hòa bình. Súng là chiến sĩ, là thực tại, còn trăng là thi sĩ, là mơ mộng, tất cả bổ sung, hài hòa cho nhau như tâm hồn người lính Cách mạng.

Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ độc đáo viết về những người nông dân mặc áo lính. Bài thơ còn là một tượng đài chiến sĩ cao cả, thiêng liêng.

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Tình Đồng Chí, Đồng Đội Của Người Lính Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Cảm nhận vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội của người lính qua bài thơ “Đồng chí”

Nếu 7 câu thơ đầu, nhà thơ đi tìm cơ sở hình thành tình đồng chí thì mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội của người lính. “Đồng chí” đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn càyGian nhà không mặc kệ gió layGiếng nước gốc đa nhớ người ra linh”.

Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thể hiện qua tình cảm gắn bó, sẻ chia của người lính trong đời sống và chiến đấu. Đó là tình tri kỷ, hiểu ban như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu thơ “Gian không, mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình với người thân, quê hương, đất nước.

Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính nơi rừng núi: “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh tật và những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải qua. Họ cùng thiếu, cùng rách và từng bước vượt qua hoàn cảnh. Đây là hoàn cảnh chung của bỏ đối ta trong những năm dấu kháng chiến chống Pháp.

Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô động và gợi cảm biết bao, có tác dụng diễn ta sâu sắc sư gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu thốn, gian truân, cực nhọc của đời lính.

Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình. Chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.

Họ quên mình đi để động viên nhau, vun vén cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là mốt cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau, truyền cho nhau hoi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tói chiều cao: cùng sống chết cho lý tưởng:

“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”

Đối lập với hiện thực khắc nghiệt của những đêm dài lạnh giá nơi “rừng hoang sương muối” là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tói trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Họ luôn đứng cạnh nhau, sẵn sàng chiến đấu. Hiện thực khốc liệt không giết chết tâm hồn họ mà ngược lại, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, tin tưởng hướng về tương lai. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế. Cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi thì cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi. Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lán lao anh hùng. Sức mạnh của tình đồng chí lại càng nổi bật.

Vầng trăng đêm rừng tiếp thêm cho họ sức mạnh, khơi bùng khát khao chiến đấu và chiến thắng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên.

Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích giặc, người chiến sĩ bỗng phát hiện mũi súng như treo một vầng trăng.

Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất vói bầu tròi, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Hiện thực vì đêm khuya trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần. Ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chở giặc. Lãng mạn vì trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng.

Nếu “súng” là biểu tượng của chiến đấu thì “trăng” là biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống; súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ. Đây là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đòi vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc.

Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ “Đồng chí là tình cảm sâu sắc chân thành của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung nhất, với một tinh thần chung nhất. Bài thơ thơ không chỉ nói lên tình cảm gần bó sâu năng của những người lính mà còn thể hiện sức manh của tình cảm ấy. “Đồng chí’ không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.

Phân Tích Cơ Sở Hình Thành Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu (Bài Làm Của Học Sinh Giỏi)

Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu (bài làm của học sinh giỏi)

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Chính Hữu (1926-2007), chủ yếu viết về đề tài người lính

+ Bài thơ được sáng tác đầu năm 1948

* Cơ sở hình thành tình đồng chí:

– Cùng chung: hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng, khó khăn gian khổ

– Xuất thân:

+ Từ những miền quê nghèo khó

+ Vùng đồng bằng chiêm trũng

+ Vùng trung du đồi núi bạc màu

– Trở thành tri kỉ :

+ “súng bên súng”: cùng chung nhiệm vụ

+ “đầu sát bên đầu”: chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu,…….

– “Đồng chí”

+ Câu thơ có kết cấu bất thường

+ Khép lại định nghĩa về tình đồng chí, mở ra biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí ở phần sau

* Khái quát lại nghệ thuật:

– Nghệ thuật đối

– Sử dụng hình ảnh mang tính hình tượng

– Sử dụng các thành ngữ hiệu quả

* Liên hệ mở rộng

– Khái quát lại vấn đề

– Nêu cảm nhận cá nhân

Bài thơ Đồng chí được sáng tác đầu năm 1948 – sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947 đánh tan cuộc tiến công với quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Và cũng chính trong hoàn cảnh ấy, ngay cả khi bị thương nằm trong lán Chính Hữu đã sáng tác bài thơ này với những cảm nhận chân thật về tình đồng đội, đồng chí. Bài thơ lần đầu được in trong Báo sự thật, dần dần trở thành tài sản chung của những người lính và trong ba lô của ai cũng có. Họ coi đó là biểu tượng cho tình đồng đội thiêng liêng, cao cả. Mà bảy câu thơ mở đầu đã đưa ta đến với cơ sở hình thành tình đồng chí:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

………………………………………..

Dường như người lính đang thủ thỉ, tâm sự bên tai nhau về xứ sở mang tên quê hương mình:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Anh với tôi, tôi với anh. Hai tiếng “anh”, “tôi” nghe thật dễ chịu, thân thương. Linh hoạt trong biện pháp tu từ đối lập cùng cách lồng ghép các thành ngữ “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” nhà thơ đã dẫn lối, đưa bạn đọc về với mọi nẻo đường, miền quê xa xôi của mọi miền Tổ quốc: Nơi quê hương anh là vùng đồng bằng chiêm trũng khó mà cày cấy còn nơi quê hương tôi cũng khắc nghiệt không kém. Đó là vùng trung du đồi núi bạc màu, đất đai cằn cỗi đến mức đá sỏi còn nhiều hơn đất. Mỗi người một quê hương, một nơi chôn nhau cắt rốn, tuy không cùng quê quán nhưng lại đều là những con người chất phác xuất thân từ những miền quê nghèo khó nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, theo lòng tự tôn dân tộc họ đã từ giã quê hương mình – nơi gắn bó suốt mấy chục năm dài để góp mình vào lực lượng kháng chiến, xông pha nơi mặt trận đầy hiểm nguy. Mới hôm qua thôi họ còn là những anh nông dân chân lấm tay bùn ngày hôm nay các anh đã trở thành những người chiến sĩ gan dạ, quả cảm. Có lẽ, vì ước mong hòa bình, vì tương lai tươi sáng họ đã gan dạ tham gia chiến trận để rồi không hẹn mà gặp, những người con của mọi miền Tổ quốc đã được gặp gỡ nhau rồi trở thành tri kỉ:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Nếu như hình tượng “súng bên súng” là biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu chống quân thù của những người lính thì “đầu sát bên đầu” lại mở ra một loạt cái chung của những người lính. Đó là cùng chung ý nghĩ, cùng lí tưởng, mục đích… Khác với nhiều bài thơ biện pháp nghệ thuật điệp ngữ lặp lại một từ nhiều lần để nhấn mạnh ý của câu thì ở đây Chính Hữu chỉ cần dùng một chữ “chung” thôi nhưng cũng có sức lan tỏa cái chung ấy lên tất cả. Còn gì đẹp hơn sự gặp gỡ, giao lưu của những con người có cùng chung mục đích chiến đấu, cùng chung lí tưởng và cả những khó khăn, gian khổ. Tất cả những cái chung tươi đẹp ấy đã trở thành chất kết dính mang họ lại gần nhau hơn. Đến đây, nhịp thơ bỗng bị ngắt lại khi câu thơ có vai trò khép lại lời mở đầu lại mang một kết cấu bất thường:

Hai chữ thôi nhưng ẩn chứa nhiều ý vị sâu xa. Nó như một lời ngắt đoạn hay cũng như một khối tảng của cảm xúc dồn nén, đè nặng lên nhau. Xuất thân từ những miền quê nghèo khó, vốn xa lạ nhưng giờ đây, khi bước vào chiến trận, những cái chung nơi người lính chân thật, giản dị đã xây dựng lên tình cảm cao đẹp hơn, đó là tri kỉ. Để rồi giờ đây tình cảm thiêng liêng ấy đã được thốt lên thành câu cảm thán “Đồng chí!”. Phải chăng không gì khác, chính tình bạn là tiếng gọi từ sâu thẳm trái tim người lính trẻ. Câu thơ kết thúc nhưng lại mang đến một sắc màu, một ánh sáng mới cho cả khổ thơ, để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng vô cùng sâu sắc.

Hai chữ “Đồng chí” đã khép lại mạch cảm xúc của định nghĩa về tình đồng chí rất đẹp, rất mới và rất hay. Sự phối kết hợp giữa biện pháp nghệ thuật đối cùng các hình ảnh chọn lọc đã làm nên thành công rực rỡ cho khổ thơ mở đầu về cơ sở hình thành tình đồng chí. Em cảm thấy rất ngưỡng mộ và khâm phục tinh thần và tình cảm mà các anh dành cho nhau.

Lê Quỳnh Chúc

Lớp 9B – Trường THCS Thái Nguyên, Thái Bình

Bạn đang xem bài viết Phân Tích Tình Đồng Chí Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!