Xem Nhiều 3/2023 #️ Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy – Wikisource Tiếng Việt # Top 3 Trend | Anhngucongdong.com

Xem Nhiều 3/2023 # Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy – Wikisource Tiếng Việt # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy – Wikisource Tiếng Việt mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh giầy (có người viết là bánh dầy hay thậm chí bánh dày ) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn. — Trích dẫn từ Bánh chưng của Wikipedia , bách khoa toàn thư mở. — Trích dẫn từ Bánh giầy của Wikipedia , bách khoa toàn thư mở.

Ngày xưa, đời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi đánh dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con.

Nhân dịp đầu Xuân, vua mới họp các hoàng tử lại, bảo rằng: “Con nào tìm được thức ăn ngon lành, để bày cỗ cho có ý nghĩa nhất, thì ta sẽ truyền ngôi vua cho”.

Các hoàng tử đua nhau tìm kiếm của ngon vật lạ dâng lên cho vua cha, với hy vọng mình lấy được ngai vàng.

Trong khi đó, người con trai thứ 18 của Hùng Vương, là Tiết Liêu[1] có tính tình hiền hậu, lối sống đạo đức, hiếu thảo với cha mẹ. Vì mẹ mất sớm, thiếu người chỉ vẽ, nên ông lo lắng không biết làm thế nào.

Một hôm, Tiết Liêu nằm mộng thấy có vị Thần đến bảo: “Này con, vật trong Trời Đất không có gì quý bằng gạo, vì gạo là thức ăn nuôi sống con người. Con hãy nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng hình Trời và Đất. Hãy lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột bánh, để tượng hình Cha Mẹ sinh thành”

Tiết Liêu tỉnh dậy, vô cùng mừng rỡ. Ông làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp thật tốt làm bánh vuông để tượng hình Đất, bỏ vào chõ chưng chín gọi là Bánh Chưng. Và ông giã xôi làm bánh tròn, để tượng hình Trời, gọi là Bánh Giầy[2]. Còn lá xanh bọc ở ngoài và nhân ở trong ruột bánh là tượng hình cha mẹ yêu thương đùm bọc con cái.

Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều đem thức ăn đến bày trên mâm cỗ. Ôi thôi, đủ cả sơn hào hải vị, nhiều món ngon lành. Hoàng tử Tiết Liêu thì chỉ có Bánh Giầy và Bánh Chưng. Vua Hùng Vương lấy làm lạ hỏi, thì Tiết Liêu đem chuyện Thần báo mộng kể, giải thích ý nghĩa của Bánh Giầy Bánh Chưng. Vua cha nếm thử, thấy bánh ngon, khen có ý nghĩa, bèn truyền ngôi Vua lại cho Tiết Liêu con trai thứ 18.

Kể từ đó, mỗi khi đến Tết Nguyên Đán, thì dân chúng làm bánh Chưng và bánh Giầy để dâng cúng Tổ Tiên và Trời Đất.

Phát Biểu Cảm Nghĩ Về Truyện Cổ Tích Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy

Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Sự tích bánh chưng bánh giầy – Bài làm 1

Hàng ngày khi ăn cơm với các hạt gạo trắng mẩy, nở xốp và nóng hổi, em lại nghĩ đến câu chuyện Sự tích bánh chưng bánh giầy.

Chúng ta ai ai cũng biết hạt gạo đáng quý biết bao. Gạo như nột người mẹ hiền nuôi sống hàng trăm đàn con nhỏ, gạo rất giản dị mà quý nhất trên dời, chỉ có những người gần gũi và tạo ra hạt gạo, vất vả tối ngày trên đồng ruộng bao la, làm cho cây lúa từ xanh non chuyển thành màu vàng óng, cho những hạt thóc nặng trĩu bông thì mới được thần linh mách bảo, chỉ dẫn như Lang Liêu.

Các anh của Lang Liêu, tức mười chín ông Lang khác, hì hục ngày đêm miệt mài tìm sơn hào hải vị chỉ để mong được lên làm vua, họ đâu biết rằng có một thứ rất quen thuộc và nuôi sống họ hàng ngày chính là hạt gạo, có lẽ họ coi cái đó chỉ là sự bình thường vô dụng. Lang Liêu đang lo lắng không biết làm món gì để cúng Tiên Vương vì trong nhà chàng chỉ có lúa, gạo, khoai sắn thì được thần đến mách bảo: Hãy lấy gạo làm bánh mì lễ Tiên Vương. Lang Liêu thấy lời thần thật đúng, ai cũng có thể làm ra lúa gạo miễn là cần cù, chịu khó, các thứ của ngon vật lạ kia ăn mãi rồi cũng chán, còn lúa gạo thì không bao giờ chúng ta cảm thấy chán. Vua Hùng là người yêu nước thương dân, yêu ruộng lúa, đồng khoai nên hiểu sâu sắc ý nghĩa của hat gạo. Bánh hình vuông tượng đất, có cây cỏ muông thú, bánh hình tròn là biểu tượng của trời.

Đó là hai loại bánh, bánh chưng và bánh giày, mà ta thường ăn vào dịp Tết ngày nay. Tên của hai loại bánh này giản dị mà chính xác. Đúng, người nối ngôi vua phải nối chí vua và Lang Liêu lên làm vua là vô cùng xứng đáng. Những thứ thịt, đậu, gạo tròn mẩy, căng trắng rất tươi tốt, ngon thơm còn nói lên một đất nước hùng mạnh, lúc nào cũng vui tươi, thơm nồng như vườn cây đầy nhựa sống không bao giờ héo tàn, thối rữa.

Cùng với hạt gạo đáng quý nên cả nước ta từ đó chăm nghề trồng trọt, cày sâu cuốc bẫm và lúa gạo từ đó càng phát triển hơn, càng đẹp đẽ hơn và càng thơm dẻo hơn. Em thấy một ông vua tốt, hiền thực sự phải một lòng vì dân vì nước, coi nước là nhà, coi dân là con như vua Hùng và Lang Liêu.

Bây giờ, mỗi khi ngồi bên bếp lửa, thưởng thức vị ngon thơm quyến rũ của hai loại bánh quý giá này, em lại nghĩ tới câu chuyện Sự tích bánh chưng, bánh giầy. Em rất tôn trọng những người lam lũ một nắng hai sương để làm nên lúa gạo nuôi sống con người, vì vậy em sẽ hạn chế làm vãi cơm từ hôm nay.

Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Sự tích bánh chưng bánh giầy – Bài làm 2

Trong truyện cổ dân gian, sự xuất hiện của Thần, Tiên, Bụt, Phật,… đã tạo nên yếu tô” hoang đường, yếu tô” kì diệu. Những nhân vật siêu nhiên ấy nhằm giúi đỡ, độ trì người nghèo, bênh vực kẻ yếu, ban phép lạ cho người tốt, trừng phạt bọn xấu xa, gian ác trong cuộc đời. Truyện cổ “Sự tích bánh chưng, bánh giầy” cũng có nhân vật Thần. Thần xuất hiện trong giấc mộng, mách bảo cho Lang Liêu làm bánh để lễ Tiên Vương. Nói rằng: “Nhờ có Thần mách bảo mà Lang Liêu mới được nối ngôi vua” tuy đứng, nhưng chưa thật đầy đủ. Chưa thật đầy đủ ở điểm nào? Vì ý kiến ấy chưa đề cập đến yếu tố con người, vai trò con người. Đó là Lang Liêu và nhà vua.

Lang Liêu là một ông hoàng “chỉ chăm lo việc đồng úng trồng lúa, trồng khoai…”. Đó là một ông hoàng giàu nhân đức, rất cần cù, sông gần dân, biết trọng nghề nông là nghề căn bản của dân tộc. Ông mồ côi mẹ, một ông hoàng bị “lép vế” trong hoàng tộc nên mới được Thần hiến kế và độ trì. Chuyện kể Lang Liêu gặp Thần trong giấc mộng, cố nghĩa là Lang Liêu được lòng dân, bởi lẽ: “Thần bảo như nhân bảo”.

Lang Liêu là một con người rất sáng tạo. Thần chỉ nói về giá trị của gạo, và mách bảo Lang Liêu nên lấy gạo để làm bánh, chứ không chỉ vẽ cách thức cụ thể làm bánh ra sao – Thế nhưng Lang Liêu đã biết lấy gạo nếp đem vo sạch, lấy đỗ đãi và thịt lợn làm nhân, lấy lá giong gói thành bánh hình vuông đem nấu chín; biết đồ gạo nếp, giã nhuyễn, nặn thành hình tròn. Lang Liêu đã sử dụng chất liệu hương vị sẩn có của nhà nông, của quê hương xứ sở, sáng tạo thành 2 thứ bánh rất ngon. Anh rất xứng đáng nhận mọi phần thưởng cao quý.

Bánh của Lang Liêu sáng tạo nên không chỉ ngon mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa, tốt đẹp. Bánh giầy tượng Trời; bánh chưng tượng Đất. Thịt mỡ, đậu xanh, lá giong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài. Có thể nói đó là sự hòa hợp giữa con người với đất trời, thiên nhiên tạo vật. Lá giong bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc nhau. Vua Hùng qua chiếc bánh chưng xanh gói bằng lá giong mà nêu cao bài học thương yêu đoàn kết. Nhà vua ngầm nhắc các hoàng tử và quần thần bài học giữ nước. Bánh chưng bánh giầy với biểu tượng cao quý ấy đã thể hiện cái tâm và cái tài, nhất là lòng trung hiếu của Lang Liêu. Lang Liêu đã làm vừa ý vua cha, biết nôi chí vua cha, xứng đáng được vua Hùng truyền ngôi báu, có Tiên Vương chứng giám.

Truyện cổ tích này đã giải thích nguồn gốc và tính nhân văn của bánh chưng, bánh giầy. Truyện đã biểu lộ niềm tự hào về một nét tuyệt đẹp: hương vị của đất nước ta rất phong phú, hương vị Tết cổ truyền dân tộc rất đậm đà. Và đó chính là bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa, nền văn hiến Việt Nam.

Sâu xa hơn nữa, “Sự tích bánh chưng, bánh giầy” còn thể hiện ý thức lấy nước, lấy dân làm gốc, coi trọng nghề nông, quý hạt gạo, biết ơn tổ tiên, kính Trời, Đất với tất cả tấm lòng hồn hậu, chân thành của con người Việt Nam chúng ta,

Phát biểu cảm nghĩ về truyện cổ tích Sự tích bánh chưng bánh giầy – Bài làm 3

Truyền thuyết là một thể loại tiêu biểu của văn học dân gian, ông cha ta đã sáng tác rất nhiều các tác phẩm truyền thuyết, phong phú về đề tài cũng như nội dung, từ truyền thuyết người anh hùng, truyền thuyết về nòi giống, truyền thuyết dựng nước…Trong đó có một mảng lớn viết về các thói quen sinh hoạt cũng như nguồn gốc của các phong tục, thói quen đó. Truyền thuyết “Bánh chưng bánh giày” là câu chuyện giải thích sự ra đời của bánh chưng bánh giầy. Đồng thời cũng phản ánh được thành tựu của nền nông nghiệp lúa nước, thể hiện thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện được truyền thống thờ kính trời đất, tổ tiên của nhân dân ta.

Truyền thuyết bánh chưng bánh giầy xoay quanh việc truyền ngôi của Hùng Vương cho những người con trai của mình. Vì ngôi vị không thể tùy ý lựa chọn theo mong muốn chủ quan mà cần tìm ra người tài giỏi nhất, phù hợp nhất nên Hùng Vương đã ra lời chỉ dụ cho hai mươi người con trai của mình ” …Năm nay nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho”. Vua Hùng đã không lựa chọn con trai trưởng nối ngôi mình như bao vị vua Hùng khác, ngài đã đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên hết, đánh giá khách quan đúng tài năng, đức độ của từng người. Qua đó mới thực hiện truyền ngôi, ta có thể thấy đây là một vị vua rất sáng suốt, công minh, tạo điều kiện cho các con của mình thể hiện tài năng, đồng thời cũng chọn được người mà mình ưng ý nhất, có thể mang lại cho dân chúng cuộc sống ấm no, thái bình.

Khi đã nhận được chỉ dụ của vua cha, các hoàng tử đều cố gắng hết sức làm vừa ý vua cha, ai cũng mong mình được truyền ngôi báu, nhưng không biết ý vua cha như thế nào nên họ chỉ biết “…đua nhau làm cỗ thật hậu, thật ngon đem đến lễ Tiên Vương”. Các hoàng tử đều rất tất bật, ngược xuôi lo chuẩn bị mọi thứ tốt nhất. Riêng chỉ có Lang Liêu là không như vậy, chàng không vui vẻ, tất bật lên rừng xuống biển chuẩn bị như các anh của mình mà rất buồn rầu. Lang Liêu là con trai thứ mười tám của vua Hùng, mẹ chàng xưa kia bị vua cha ghẻ lạnh, rồi ốm chết. Nên, so với những người anh em của mình thì Lang Liêu có phần thiệt thòi hơn rất nhiều, cả về địa vị cũng như tình cảm của vua cha.

Nhận lệnh của vua cha, Lang Liêu đã rất lo lắng, bởi chàng không biết mang những lễ vật gì đến lễ Tiên Vương, cũng là dâng lên vua cha để tỏ lòng thành. Chàng không biết đến nhiều những thứ của ngon, vật lạ cũng không biết chuẩn bị những mâm cỗ thịnh soạn, sang trọng như các anh của mình. Bởi, từ khi trưởng thành chàng đã ra sống riêng thì chàng chỉ chăm lo cho chuyện đồng áng, trồng các loại nông sản như: lúa, khoai…Có thể nói những loại nông sản này gần gũi với cuộc sống của chàng nhất, cũng là có giá trị với chàng nhất, nhưng nếu đem những thứ này đến lễ Tiên Vương thì có chút tầm thường. Tuy nhiên, vì chàng là người hiền lành, tốt bụng nên đã nhận được sự giúp đỡ của thần.

Trong một đêm nằm ngủ chàng đã mộng thấy thần đến, và cho chàng những gợi ý quý báu cho lễ Tiên Vương sắp tới. Theo lời của thần thì “…trong trời đất,không có gì quý bằng hạt gạo. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm,mà người không làm ra được. Còn lúa gạo thì mình trồng lấy, trồng nhiều được nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà lễ Tiên Vương”. Câu nói của thần vừa sự giúp đỡ đối với hoàng tử Lang Liêu, song đồng thời đây cũng là lời của dân chúng, thể hiện được thái độ coi trọng của mình đối với hạt gạo. Bởi gạo chính là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nước. Nên, đối với những người nông dân thì gạo vô cùng giá trị, đó là thành tựu của nền nông nghiệp. Mượn lời của thần, các tác giả dân gian muốn đề cao vai trò của gạo trong cuộc sống sinh hoạt của người dân, cũng như thái độ trân trọng của nhân dân đối với sản phẩm lao động đó.

Được sự gợi nhắc của thần, Lang Liêu đã rất vui mừng, càng nghĩ càng cảm thấy lời của thần đúng. Chàng bắt tay ngay vào làm món bánh thần nói đến để mang đến lễ Tiên Vương, đầu tiên đó là việc lựa chọn nguyên liệu làm bánh “chàng bèn chọn thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh hạt nào hạt nấy tròn mẩy, đem vo thật sạch, lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm thật nhừ”. Món bánh này được làm từ nguyên liệu chính là gạo nếp, sản phẩm mà Lang Liêu đã cần mẫn làm ra. Các thứ nguyên liệu khác như thịt lợn, lá dong đều là những nguyên liệu sẵn có, có thể dễ dàng tìm kiếm trong cuộc sống của con người. Lang Liêu sử dụng những nguyên liệu sẵn có trong cuộc sống cùng với lời hướng dẫn làm một thứ bánh làm từ gạo thì chàng đã làm ra một món bánh đầu tiên, món bánh mà sẽ dâng lên vua cha trong lễ Tiên Vương.

Món bánh thứ hai chàng chế biến, cũng từ thứ gạo nếp ấy, nhưng đổi vị, đổi kiểu đi. Như vậy là chàng đã có hai món bánh mang đến dâng vua cha. Trong lễ Tiên Vương, những món ăn ngon như nem công chả phượng, cũng như các món ăn quý hiếm, được mang đến không thiếu thứ gì. Nhưng chỉ có món bánh của Lang Liêu mới thực sự làm vừa ý vua cha, rồi hai thứ bánh ấy được nhà vua lựa chọn để đem tế Trời, Đất cùng Tiên Vương. Không chỉ vậy, Vua Hùng còn đặc biệt đặt tên cho loại bánh có hình tròn là bánh giầy, loại bánh này sẽ tượng trưng cho trời, còn bánh hình vuông là tượng trưng cho đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài gọi tên là bánh chưng.

Và cũng nhờ hai loại bánh này mà Lang Liêu được vua cha truyền cho ngôi báu.Và cũng từ đó thì dân ta hình thành nên phong tục thờ bánh chưng, bánh giầy ngày Tết “thiếu bánh chưng, bánh giầy thiếu hẳn hương vị ngày Tết”. Như vậy, truyền thuyết này cũng là cách các tác giả dân gian lí giải về nguồn gốc ra đời cũng như ý nghĩa biểu tượng của những chiếc bánh chưng, bánh giầy. Đó không chỉ đơn thuần là những chiếc bánh quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, mà đằng sau đó còn là cả một nếp sống văn hóa của con người Việt Nam. Câu chuyện cũng thể hiện được truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, đó là tín ngưỡng thờ Trời, Đất, những vật mà con người cho rằng có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của họ, cũng như truyền thống thờ cũng ông bà tổ tiên, đó đều là những nếp sống, những phong tục tốt đẹp được duy trì đến tận ngày nay.

Như vậy, truyền thuyết “Bánh chưng bánh Giầy” là câu chuyện dân gian lí giải nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy. Thể hiện được niềm tự hào của dân tộc Việt Nam về thành tựu của nền nông nghiệp lúa nước, cũng như về những phong tục tập quán, truyền thống lâu đời của dân tộc từ bao đời nay, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, truyền thống thờ kính tổ tiên, tín ngưỡng thờ Trời, đất.

Những Đặc Trưng Thi Pháp Cổ Tích Trong Truyện Bánh Chưng Bánh Giầy

Vấn đề phân loại truyện dân gian nhất là trên đơn vị tác phẩm cụ thể, đang là vấn đề nhức nhối. Chỉ mới năm học 2001-2002 học sinh lớp 6 trong cả nước đang được học truyện Bánh chưng bánh giầy là cổ tích mà năm học 2002-2003 các em lại được học truyện này là một truyền thuyết. Sách giáo khoa là pháp lệnh, tại sao lại được thay đổi dễ dàng đến vậy? Phải chăng vì kiến thức thể loại truyện này của người biên soạn cũ là sai? 1, Thực trạng phân loại truyện Bánh chưng bánh giầy – Xét về nguồn gốc văn bản, sách Ngữ văn 6 ghi chú: truyện được chọ dựa theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập I, Nxb Văn học 1977, thế nhưng thật ra trong tài liệu này người ta lại xếp truyện Bánh chưng bánh giầy vào cổ tích, trong mục “ Truyện thần thoại, truyện cổ tích”. Như vậy là đã có một cuộc đối thoại ngầm giữa sách Ngữ văn 6 với Hợp tuyển thơ văn Việt Nam về vấn đề thể loại của truyện dân gian này. – Trong giáo trình của Đại học Tổng hợp do Đinh Gia Khánh chủ biên, truyện Bánh chưng bánh giầy được xếp vào cổ tích. – Hoàng Tiến Tựu, trong giáo trình viết cho Cao đẳng Sư phạm, lại giữ quan điểm trung dung khi xếp Bánh chưng bánh giầy vào nhóm những truyện “ rất khó xếp loại, khi thì ở ô này, khi thì đặt sang ô khác, người thì coi là cổ tích, người thì coi là truyện dân gian khác”. Vấn đề phân loại tác phẩm văn học dân gian nói chung, truyện dân gian nói riêng là vấn đề rất khó vì rằng tác giả dân gian khi sáng tạo không hề xuất phát từ những nguyên lý lý luận có trước như các tác gỉa văn học viết. Đó là chưa kể sự lưu truyền bằng miệng trong một quá trình lịch sử lâu dài cũng góp phần làm biến tướng của tác phẩm văn học dân gian theo những chiều hướng khác nhau. Những lí do trên đã tạo nên loại hình truyện dân gian những tác phẩm mang dấu hiệu của nhièu thể loại khác nhau. Trong khi đó việc xác định đúng thể loại lại hết sức cần thiết, nhất là đối với những tác phẩm được chọn giảng trong nhà trường. Trước hết không thể phủ nhận những dấu hiệu của một truyền thuyết có mặt trong truyện Bánh chưng bánh giầy. Truyện đã hướng người đọc vào một thời gian khá xác định- thời Hùng vương thứ 6. Xác định cụ thể thời gian không gian nghệ thuật là xu hướng phổ biến trong truyền thuyết vì rằng người kể truyền thuyết thường muốn cho người nghe tin vào điều được kể ra. Tuy nhiên không phải ở truyện nào có thoài gian, không gian nghệ thuật xác định thì truyện đó phải là truyền thuyết. Dựa vào những đặc trưng thi pháp nhân vật và thi pháp cốt truyện trong truyện chúng ta thấy Bánh chưng bánh giầy mang nhiều ddawcj điểm của một truyện cổ tích hơn, đến mức không thể xếp nó vào thể loại truyền thuyết được. 2, Những đặc điểm thi pháp cổ tích trong truyện Bánh chưng bánh giầy. 2.1 Đặc điểm thi pháp nhân vật Nhân vật chính và cốt truyện là những yếu tố cơ bản tạo nên một tác phẩm tự sự. Nhwn vật chính bao giờ cũng đóng vai trò trung tâm trong việc thể hiện đề tài. Chính vì vậy, dựa vào đặc điểm xây dựng nhân vật người ta cũng có thể nhận biết được thể loại truyện đó. khảo sát nhân vật chính trong truyện Bánh chưng bánh giầy chúng ta sẽ thấy rất roc hình tượng Lang Liêu mang đầy đủ những đặc điểm thi pháp nhân vật của một truyện cổ tích. – Trước hết Lang Liêu không phải là một nhân vật bán thần như các nhân vật trong truyền thuyết thời Hùng vương. Dựa vào đặc trưng xây dựng nhân vật, các nhà khoa học đã chia các truyền thuyết lịch sử thành hai bộ phận: những truyền thuyết thời kì dựng nước thuộc thế hệ các vua Hùng và các truyền thuyết thời đại giữ nước( thời phong kiến). Những người xem truyện Bánh chưng bánh giầy không phải kà truyền thuyết đã dựa vào các chi tiết như Hùng vương thứ 6 chọn người kế vị, Lang Liêu được chọn nối ngôi vua, tục giỗ chạp bằng bánh chưng bánh giầy… để xếp truyện này vào nhóm truyền thuyết lịch sử thời đại các vua Hùng. Và khi nhận xét về đặc điểm của loại truyền thuyết thời kì này họ viết: “ So với truyền thuyết thời kì đầu dựng nước, những truyền thuyết thời kì sau ít hoang đường hơn”. Nghĩa là họ thừa nhận tính chất hoang đường đậm đặc của bộ phận truyền thuyết này như một đặc điểm nhận diện quan trọng. Quả thật, các nhân vật truyền thuyết thời vua Hùng như Lạc Long Quân, Thánh Gióng đều được thần thánh hoá cao độ, bởi thế mà không phải ngẫu nhiên trước đây các nhiều nhà khoa học đã xếp nhầm các truyện này vào thần thoại. Chúng ta biết rằng truyền thuyết thời các vua Hùng đều ra đời rất sớm, khi mà thế giới quan thần linh chủ nghĩa, hệ tư tưởng chủ yếu để sinh ra thần thoại, chưa bị tan rã như các thời đại về sau. Khi đề cao các anh hùng lịch sử, thế giới quan này đã giúp tác giả dân gian thần thánh hoá họ, biến họ thành những con người có sức mạnh thần kì chứ không phải là những nhân vật lịch sử được các thần linh giúp đỡ như An Dương Vương, Lê Lợi… sau này. Tuy nhiên xem xét kĩ cũng sẽ nhận thấy nhân vật chính của thời Hùng vương khác nhân vật chính của thần thoại ở chỗ nhân vật thần thoại là thần, tức là những sức mạnh tự nhiên được hình nhân hoá trong khi nhân vật truyền thuyết thời kì này là người được thần thánh hoá. Ngày nay khi nói về đặc điểm của các nhân vật trong các thể loại truyện dân gian người ta cho rằng nhân vật chính trong truyền thuyết thời Hùng Vương là bán thần để phân biệt với nhân vật chính trong thần thoại là thần còn nhân vật chính của cổ tích là những người dưới cùng của các lực lượng xã hội. Điều mà cả soạn giả sách Ngữ văn 6 và Nguyễn Xuân Lạc đều không chú ý tới là truyện Bánh chưng bánh giầy nhân vật Lang Liêu không hề mang màu sắc thần thánh như các nhân vật truyền thuyết thời Hùng Vương. Lang Liêu chỉ được thần giúp đỡ bằng lời báo mộng chứ chàng không có sức mạnh thần thánh như Lạc Long Quân, như Thánh Gióng. Chàng hoàn toàn là người đời thường thậm chí là người dưới cùng trong tầng lớp lang. Lang Liêu trong truyện Bánh chưng bánh giầy chỉ là sự gán ghép một nhân vật cổ tích với một vị vua, một thời kì lịch sử đã ăn đậm vào trong tiềm thức của nhân dân. Hình tượng này không mang đặc điểm của một truyền thuyết mà mang đậm những đặc điểm thi pháp của một nhân vật cổ tích. – Lang Liêu thuộc mô típ nhân vật thấp hèn. Trong cổ tích chúng ta bắt gặp một loại mô típ nhân vật phổ biến, đó là nhân vật thấp hèn. Cái thấp hèn được thể hiện thông qua các nhân vật dưới cùng của xã hội hoặc có khi là của một tầng lớp. Đó là những người mồ côi, những người ở, là em út trong nhà, là anh trai cày… Lang Liêu thuộc nhân vật dưới cùng của một tầng lớp, chàng là con thứ mười tám trong số hai mươi người con của Hùng Vương thứ 6, nhưng lại là đứa con mồ côi, bị bỏ rơi phải về quê cày ruộng. Chàng rất giống các nhân vật Hoàng tử út trong các truyện cổ tích Châu Âu. Đó là người thiệt thòi hơn các Hoàng tử anh vì không được vua cha yêu dấu, nhưng lại là người đức độ hiếu thảo và nhờ vậy được thần linh giúp đỡ, được trang bị các trợ thủ thần kì và là người chiến thắng cuối cùng và được lên làm vua… Nhân vật thấp hèn trong cổ tích chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận của những người lao động trong xã hội cũ. – Lang Liêu thuộc mô típ nhân vật bất hạnh. Chính nhân vật thấp hèn cũng là nhân vật bất hạnh rồi, thế nhưng do tính chất cực đoan trong xây dựng nhân vật cho nên nhân vật cổ tích còn được đặt trong những hoàn cảnh éo le. Chúng ta bắt gặp trong cổ tích người Việt một Chử Đồng Tử nghèo đến mức sau khi cha chết đến khố cũng không còn đủ để che thân, một Văn Linh mồ côi mẹ bị dì ghẻ hãm hại ( truyện Người dì ghẻ ác nghiệt hay sự tích con dế – KTTCTVN) một chàng đánh cá nghèo hèn cả gia tài chỉ có một con thuyền nhỏ ( truyện Con gái thần nước mê chàng đánh cá)… chúng ta cũng gặp trong cổ tích nhiều nước Châu Âu một cô LọLem cũng bất hạnh như cô Tấm trong truyện Tấm Cám của cổ tích người Việt… Tất cả đều là những kẻ mồ côi, là người bất hạnh. Theo các chi tiết trong truyện thì Lang Liêu là người thiệt thòi nhất vì “mẹ chàng xưa kia bị vua cha ghẻ lạnh, ốm rồi chết”. Như vậy, Lang Liêu không chỉ thuộc loại dưới cùng của một tầng lớp ( Hoàng tử út) mà còn là kẻ mồ côi, kẻ bất hạnh, một mô típ phổ biến trong cổ tích nước ta và thế giới. Rõ ràng nhân vật Lang Liêu cũng được tác giả dân gian xây dựng theo mô típ phổ biến này. Lang Liêu là mô típ nhân vật nhân cách. Những nhân vật chính, chính diện trong cổ tích thường mang những nét đẹp về nhân cách. Đó là những nhân vật mang đức tính nghĩa tình, chung thuỷ, trung thực, thương người… nhưng phổ biến nhất là loại nhân vật cần cù lao động. Chính nhờ những đức tính tốt đẹp đó mà họ được các lực lượng thần kì giúp đỡ để đạt được chiến thắng cuối cùng. Chúng ta bắt gặp trong cổ tích vô cùng nhiều loại nhân vật cần cù như cô Tấm, Thạch Sanh, Sọ Dừa, anh trai cày ( cây tre trăm đốt), người em ( trong truyện Hai anh em và con chó đá), anh nông dân nghèo (trong truyện Người dân nghèo và Ngọc Hoàn Lang Liêu là người đại diện cho tình yêu lao động của tác giả dân gian. Chàng là một kẻ mồ côi, một thân phận bất hạnh, nhưng cũng là một nhân cách đẹp, “ suốt ngày chỉ chăm lo việc đồng áng, trồng lúa, rồng khoai”. Hình tượng Lang Liêu chính là hình ảnh người nông dân một nắng hai sương, nhưng cũng chính là người làm ra của cải nuôi sống muôn người. – Lang Liêu là mô típ nhân vật đổi đời. Lang Liêu đang từ một người bị ghẻ lạnh phải về sống nghèo khổ nơi thôn dã bỗng được chọn làm người kế vị vua. Đây là loại nhân vật chính phổ biến trong những truyện cổ tích kết thúc có hậu, một kết thúc dựa trên ước mơ của người lao động. Sự đổi đời trong loại cổ tích này thường là nhân vật được hưởng hạnh phúc tuyệt đỉnh: có nhiều vàng bac châu báu, được làm vua, làm hoàng hậu, làm phò mã… Trong loại truyện này tác giả dân gian muốn chững minh triết lý “Ở hiền gặp lành” và cái hạnh phúc mà nhân vật chính- chính diện được hưởng dù có quá đi bởi ước mơ của họ thì cũng có phần xứng đáng với công sức lao động mà nhân vật đã thực hiện từ đầu truyện. Chính vì lý do này các nhân vật đổi đời bao giờ cũng mang những nhân cách cực đoan tức là rất tốt để xứng đáng với phần thưởng to lớn mà họ được hưởng. Thật ra với kiểu nhân vật đổi đời tác giả dân gian đã thực hiện cái hẳn nhiên dù chưa khả nhiên trong xã hội bất công. Rõ ràng loại nhân vật thân phận, nhân vật nhân cách, nhân vật đổi đời… như Lang Liêu, như người em ( trong truyện Cây Khế), anh trai cày đi ở ( trong truyện Cây tre trăm đốt), cô Tấm và chàng Thạch Sanh mồ côi ( trong truyện Tấm Cám và truyện Thạch Sanh), vua Heo ( trong truyện Vua Heo)… là những môtíp thường gặp trong cổ tích. Những loại truyện này là những cổ tích nhằm ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người lao động chứ không hề hướng tới một vấn đề lịch sử trọng đại như truyền thuyết. Hơn thế nữa, nhân vật cổ tích là những nhân cách đời thường, đấu tranh vì những quyền lợi đời thường, của mỗi cá nhân, cho nên dẫu có được lên làm vua như Thạch Sanh thì cũng chỉ để thoả mãn khát vọng đổi đời của một con người đại diện cho một tầng lớp chứ không hề thay đổi vận mệnh của cả cộng đồng như nhân vật truyền thuyết. Truyền thuyết, nhất là truyền thuyết thời đại các vua Hùng, không xây dựng nhân vật kiểu này, nhân vật của nó có khẩ năng ảnh hưởng đến vận mệnh của cả một cộng đồng. Tóm lại chỉ mới xét đặc trưng thi pháp của nhân vật chính trong truyện chúng ta đã thấy việc xếp truyện Bánh chưng bánh giầy vào truyền thuyết thời đại các vua Hùng là không hợp lý. Nhân vật chính của truyền thuyết không phải là những mẫu người đời thường như thế mà chủ yếu là các anh hùng lịch sử và đối với người nghe truyền thuyết, đó là những “bậc tôn ti”( chữ của Bakhtin). Truyền thuyết bao giờ cũng đề cập đến những sự kiện đã xảy ra, chức năng của nó là đánh giá các nhân vật lịch sử, các sự kiện lịch sử với cảm hứng chủ đạo là ngợi ca

Bài Văn Thuyết Minh Về Bánh Chưng Ngày Tết Lớp 9, 10

Bài văn thuyết minh về bánh chưng ngày tết của học sinh giỏi lớp 9, 10 và cách lập dàn ý thuyết minh về chiếc bánh chưng chi tiết.

I. Dàn Ý Thuyết Minh Về Bánh Chưng Ngày Tết Ngắn Gọn

Giới thiệu khái quát về chiếc bánh chưng

2. Thân bài thuyết minh về chiếc bánh chưng lớp 10

a. Nguồn gốc lịch sử, xuất xứ của bánh chưng

– Bánh chưng là một loại bánh quen thuộc, gần gũi và có từ lâu đời ở nước ta, mang những đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam.

– Bánh chưng là loại bánh duy nhất ở nước ta có lịch sử lâu đời trong ẩm thực của người Việt còn được nhắc lại ở sử sách cho đến tận ngày hôm nay.

– Nguồn gốc ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy”, về Lang Liêu và vua Hùng thứ sáu

b. Nguyên liệu và cách làm

– Nguyên liệu:

+ gạo nếp – một loại gạo dẻo và có vị thơm để làm vỏ bánh.

+ Nhân bánh được là sự kết hợp giữa đậu xanh, thịt lơn và dưa hành.

+ Lá chuối hoặc lá dong và lạt để gói bánh

+ Một số nguyên liệu phụ khác như tiêu, muối…

– Các bước làm bánh chưng:

Gạo nếp phải được làm sạch sẽ và ngâm với nước để gạo được mềm và dẻo hơn.

Đậu xanh được làm sạch vỏ và được nấu chín nhuyễn với một ít muối.

Thịt lợn được cắt thành miếng nhỏ và ướp với gia vị để tạo độ thơm.

Lạt buộc cần được làm thành sợi dài và mỏng

+ Gói bánh chưng: Bánh chưng được gói bằng tay nhờ vào các khuôn bánh được làm sẵn từ trước

Yêu cầu khi luộc bánh phải đủ thời gian, không quá ngắn mà cũng không quá dài.

Người ta thường luộc bánh trong khoảng thời gian tám đến mười giờ, tùy vào loại gạo nếp được sử dụng

+ Sau khi bánh đã được nấu chín, người ta vớt bánh ra để nguội và như có thể sử dụng luôn.

Tùy vào khẩu vị của mỗi vùng, miền mag bánh chưng có thể thêm vào hoặc bớt đi một số nguyên liệu.

c. Cách sử dụng và vai trò, ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt.

– Bánh chưng là nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt.

– Biểu tượng cho tấm lòng biết ơn ông bà tổ tiễn và sự trân trọng những điều bình dị, tinh túy trong trời đất.

– Bánh chưng là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ, trong mâm cơm cúng tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về.

– Bánh chưng đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người con đất Việt.

Khái quát lại vai trò, ý nghĩa của chiếc bánh chưng và cảm nghĩ của bản thân về chiếc bánh chưng.

II. Bài Viết Thuyết Minh Về Chiếc Bánh Chưng Lớp 9, 10

Câu ca dao ấy cất lên chắc hẳn sẽ gợi lên trong mỗi người dân trên đất nước Việt Nam từ già cho tới trẻ, từ trai cho tới gái hình ảnh chiếc bánh chưng – một loại bánh dân dã, quen thuộc, thân quen mà rất đỗi cao quý và ngập tràn ý nghĩa đối với mỗi người con đất Việt.

2. Thân bài thuyết minh về cái bánh chưng

Như chúng ta đã biết, bánh chưng là một loại bánh quen thuộc, gần gũi và có từ lâu đời ở nước ta, mang những đặc trưng riêng của văn hóa Việt Nam. Có thể nói, bánh chưng là loại bánh duy nhất ở nước ta có lịch sử lâu đời trong ẩm thực của người Việt còn được nhắc lại ở sử sách cho đến tận ngày hôm nay. Nguồn gốc ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết “Bánh chưng bánh giầy”, về Lang Liêu và vua Hùng thứ sáu. Chuyện kể rằng, sau khi đánh tan giặc Ân xâm lược, vì muốn chọn được người kế vị xứng đáng, vua Hùng thứ sáu đã tổ chức cuộc thi giữa các con của mình với yêu cầu ai làm cho vua cha vừa lòng, tìm được lễ vật phù hợp để dâng lên lễ tế thì sẽ được truyền ngôi cho. Trong khi các anh của mình lên rừng, xuống biển tìm kiếm bao nhiêu sơn hào hải vị, của ngon vật lạ thì Lang Liêu – người con út lại không biết nên lấy gì làm lễ vật để dâng lên vua cha vì chàng chả có gì ngoài lúa gạo. Nhưng thật may mắn thay cho chàng, chàng nằm mộng và được thần chỉ cho cách lấy gạo, đậu và thịt để làm bánh. Loại bánh chàng làm ra hình tròn thì gọi là bánh giầy tượng trưng cho trời, bánh chưng hình vuông, tượng trưng cho đất. Và rồi, cuối cùng, Lang Liêu chính là người làm hài lòng vua cha, chàng được truyền ngôi và cũng kể từ đấy, bánh chưng ra đời và trở thành nét biểu tượng độc đáo trong văn hóa ẩm thực Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn, quý trọng của con cháu với ông bà tổ tiên và với trời đất.

Bánh chưng là loại bánh dân dã, quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam, bởi vậy nguyên liệu để làm nó cũng rất bình dị, gần gũi. Trước hết, để làm được bánh chưng không thể thiếu gạo nếp – một loại gạo dẻo và có vị thơm để làm vỏ bánh. Nhân bánh được là sự kết hợp giữa đậu xanh, thịt lợn và dưa hành. Ngoài ra, khi làm bánh cũng cần có là chuối hoặc lá dong và lạt để gói bánh cùng một số nguyên liệu phụ khác như tiêu, muối. Thông thường, để làm ra được một chiếc bánh chưng người ta cần phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và khéo léo của người làm bánh. Đầu tiên đó là công đoạn chuẩn bị nguyên liệu. Những nguyên liệu kể trên phải được sơ chế một cách kĩ càng, chu đáo. Gạo nếp phải được làm sạch sẽ và ngâm với nước để gạo được mềm và dẻo hơn. Đậu xanh được làm sạch vỏ và được nấu chín nhuyễn với một ít muối. Thịt lợn được cắt thành miếng nhỏ và ướp với gia vị để tạo độ thơm. Ngoài ra, lạt buộc cần được làm thành sợi dài và mỏng. Sau khi đã chuẩn bị nguyên liệu theo yêu cầu, người ta bắt đầu gói bánh. Bánh chưng được gói bằng tay nhờ vào các khuôn bánh được làm sẵn từ trước. Đồng thời, để làm nên một bánh chưng ngon còn yêu cầu khi luộc bánh phải đủ thời gian, không quá ngắn mà cũng không quá dài. Thông thường, người ta thường luộc bánh trong khoảng thời gian tám đến mười giờ, tùy vào loại gạo nếp được sử dụng. Sau khi bánh đã được luộc chín người ta vớt bánh ra và để nguội, như vậy là đã có một chiếc bánh chưng ngon, đẹp rồi. Thêm vào đó, tùy vào khẩu vị của mỗi vùng, miền mag bánh chưng có thể thêm vào hoặc bớt đi một số nguyên liệu.

Bánh chưng là nét độc đáo trong văn hóa ẩm thực của người Việt. Nó biểu tượng cho tấm lòng biết ơn ông bà tổ tiễn và sự trân trọng những điều bình dị, tinh túy trong trời đất. Bánh chưng là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ, trong mâm cơm cúng tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về. Bánh chưng đã trở thành một nét đẹp không thể thiếu trong tâm thức của mỗi người con đất Việt. Chắc có lẽ bởi vậy mà mỗi người con đất Việt ở xa quê, mỗi dịp Tết đến người ta vẫn cùng nhau tự gói hay mua về những chiếc bánh chưng để thờ cúng và cùng nhau thưởng thức như một cách để nhớ, để gìn giữ và lưu truyền nét đẹp văn hóa của dân tộc.

Tóm lại, bánh chưng là loại bánh cổ truyền, có ý nghĩa sâu sắc trong đời sống của hàng triệu, hàng triệu người con đất Việt. Dù thời gian có trôi đi, cuộc sống của con người ngày càng phát triển và có thêm nhiều món ăn, loại bánh mới nhưng không bất cứ thứ gì có thể thay đổi được vị trí, ý nghĩa của chiếc bánh chưng trong văn hóa và trong ẩm thực của người dân Việt Nam.

thuyết minh về bánh chưng

thuyết minh bánh chưng

thuyết minh về bánh chưng ngày tết

thuyết minh về bánh chưng lớp 10

thuyết minh về bánh chưng ngày tết học sinh giỏi

thuyết minh về món ăn ngày tết lớp 10

thuyết minh về món bánh chưng

thuyết minh về chiếc bánh chưng ngày tết

thuyết minh về cái bánh chưng

Bình Luận Facebook

.

Bạn đang xem bài viết Sự Tích Bánh Chưng Bánh Giầy – Wikisource Tiếng Việt trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!