Cập nhật thông tin chi tiết về Tìm Hiểu Một Số Mô mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Truyện cổ tích là một trong những thể loại văn học dân gian quan trọng, được phổ biến rộng rãi ở tất cả các dân tộc trên thế giới.Trong truyện cổ tích Nhật Bản, người việc thể hiện một cảnh rõ nét những con người trên xứ sở anh đào phổ biến mang đậm sắc thái dân tộc Nhật Bản.
1. Mô-típ dì ghẻ – con chồng: Quan hệ giữa mẹ ghẻ – con chồng là một trong những quan hệ gia đình được phản ánh, đề cập khá nhiều trong truyện cổ tích Nhật Bản. Đây là mô-típ truyện cổ tích về nhân vật bất hạnh, của người con riêng. Dì ghẻ – con chồng là một mối quan hệ không hòa thuận và đầy mâu thuẫn. Dì ghẻ thường không thương yêu con riêng của chồng và gây ra nhiều chuyện bất lợi cho con chồng. Mâu thuẫn này được nâng lên thành mâu thuẫn có tính xã hội, mâu thuẫn giữa thiện và ác. Cuối cùng giải quyết mâu thuẫn theo quan niệm dân gian: cái ác bị trừng trị, cái thiện được che chở, có một cuộc sống hạnh phúc. Nội dung của các truyện xoay quanh số phận của, những đứa con tội nghiệp bị mẹ ghẻ hành hạ, đối xử tàn ác không biết trông cậy vào đâu. Trong truyện Cô gái và chậu hoa, người mẹ kế với trái tim lạnh lùng, tàn nhẫn đã đuổi cô gái Chậu Hoa tội nghiệp ra khỏi nhà, đẩy cô vào cuộc sống lang thang, khốn khổ, cuối cùng sau những đớn đau, tủi cực, Chậu Hoa đã tìm được hạnh phúc bên người chồng giàu có và hết mực thương yêu cô. Trong truyện Tình nghĩa chị em thì người mẹ kế hết lần này đến lần khác tìm cách hãm hại con chồng, tội ác của dì ngày càng lớn, đến mức âm mưu giết chết Ôxuki, nhưng nhờ có đứa em tốt bụng (con riêng của người mẹ kế) mà Ôxuki đã ba lần được cứu sống, thoát khỏi bàn tay độc ác của mụ ta và may mắn được một lãnh chúa cảm thông hoàn cảnh cưu mang và sống một cuộc đời hạnh phúc. Hầu hết các truyện đều nói lên sự cay nghiệt của người mẹ ghẻ đối với con riêng của chồng.
2. Mô-típ sự kết hôn:
Đến tuổi trưởng thành, ước mơ lấy vợ lấy chồng, có được hạnh phúc lứa đôi êm ấm là khát khao muôn đời của con người và điều này được gửi gắm qua truyện cổ tích. Trong truyện cổ tích Nhật Bản mô-típ kết hôn xuất hiện khá nhiều, đó là những cuộc hôn nhân giữa những người khác nhau về thân phận và địa vị. Một chàng trai nghèo làm nghề đốt than nhem nhuốc cưới nàng công chúa Tamatsu xinh đẹp, con gái của Thiên Hoàng (truyện Nàng công chúa Tamatsu). Chàng ăn mày trẻ tuổi Sankuke kết hôn với con gái lãnh chúa Choja (Cuộc đời một người hành khất). Một chàng trai tí hon nhưng có những hoài bão ước mơ thật lớn lao, chàng đã dũng cảm bảo vệ tiểu thư Naru khỏi nanh vuốt của con quỷ đỏ khổng lồ, kết thúc câu chuyện là lễ cưới của chàng với tiểu thư Naru – con của lãnh chúa Samurai Sanjo hùng mạnh (Isum Boshi, anh chàng Samurai tý hon). Sau bao nhiêu đớn đau, khổ cực khi bị người mẹ kế đuổi ra khỏi nhà, cô gái Chậu Hoa được cứu thoát chết bởi con trai lãnh chúa, sự chăm chỉ, dịu dàng của cô đã làm lay động trái tim chàng trai, hai người kết hôn và sống hạnh phúc mãi mãi (Cô gái và chậu hoa)…Đặc biệt trong truyện cổ tích Nhật Bản mô-típ người lấy thần tiên rất phổ biến, đó là những cuộc hôn nhân giữa người trần gian và thần tiên (truyện Bức hình của người đẹp, Bà chúa tuyết, Urashima Taro, Hiko Boshi và Ôri Himê, Nữ thần nhà trời…). Truyện Bà chúa tuyết kể về cuộc hôn nhân giữa một chàng trai người trần với bà chúa tuyết, bà chúa tuyết băng giá, lạnh lùng đã bị sự trẻ trung của Minokichi thu hút đến mức từ bỏ tất cả để trở thành người vợ hiền của chàng. Hiko Boshi và Ôri Himê là một truyện kể về cuộc hôn nhân của người trần gian với thần tiên. Một chàng trai nghèo tên Hiko Boshi một lần đi qua hồ nước và thấy một cô gái đẹp đang tắm, chàng đã lén giấu chiếc áo thiên đình của nàng và lấy nàng làm vợ. Cuộc sống trôi đi êm ả cho đến khi Ôri Himê tìm thấy chiếc áo thiên đình của mình thì nàng bay về trời. Trong truyện cổ tích Nhật Bản chúng ta còn bắt gặp cuộc hôn nhân của chàng trai người trần với công chúa thủy cung, đó là Urasima Taro truyện cổ tích cùng tên Urasima Taro, là một chàng trai hiền lành, tốt bụng, một lần do sự tình cờ chàng đã cứu sống một con rùa thoát khỏi sự hành hạ của lũ trẻ nghịch ngợm, phần thưởng cho sự cứu mạng ấy là một cuộc sống tuyệt vời bên công chúa thủy cung. Tuy vậy, dù được sống một cuộc sống lý tưởng, vượt xa những ước mơ huyền hoặc nhất của chàng trước kia, nhưng chỉ ít lâu sau chàng bắt đầu nhớ quê hương, nhớ mẹ già và nhớ ngôi nhà nhỏ của chàng, nỗi nhớ nhung tăng theo năm tháng, và khi đứng trước hai sự lựa chọn, chàng đẽ quyết định rời bỏ cuộc sống trong mơ ấy và trở về với cuộc sống vốn có của mình.
Sở dĩ có những cuộc hôn nhân giữa những con người khác nhau về thân phận, địa vị, giữa những người trần gian và thần tiên là bởi tác giả dân gian muốn khẳng định quyền được yêu, quyền được hạnh phúc của mỗi con người. Trong tình yêu mọi đối tượng đều bình đẳng. Mô-típ người lấy tiên còn nổi lên tình yêu đam mê đối với cuộc sống trần gian, cuộc sống của con người trần tục. Đó là mô-típ truyện đề cao cuộc sống bình dị, tuy vất vả nhưng có thực và hấp dẫn con người. Có thể nói rằng đó cũng là sự kết tinh lòng yêu đời tha thiết của con người mà tạo thành.
3. Mô-típ sự trừng phạt:
Mô-típ trừng phạt là mô-típ phổ biến trong truyện cổ tích bởi qua đó dân gian thể hiện quan niệm về thiệc – ác, thể hiện khát khao được sống trong một xã hội công bằng, văn minh. Các truyện thuộc mô-típ này mang tính giáo dục cao, đem đến cho người đọc những bài học quý giá, khuyên răn con người sống ở đời phải thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, không nên tham lam, gian ác vì “ở hiền gặp lành”, “hại nhân nhân hại” và “gieo gió gặp bão” …
4. Mô-típ sự tha thứ:
Nhằm làm nổi bật phẩm chất cao đẹp, lý tưởng của nhân vật chính diện, tác giả dân gian đã để cho nhân vật chính diện tha thứ cho nhân vật phản diện. Chàng câu cá Ichiemon mặc dù rất bực bội vì quỷ nước Kappa đã lén uống hết rượu của mình mà không xin phép, nhưng với tấm lòng nhân hậu và độ lượng, anh quyết định bỏ qua tội lỗi của nó (Chàng câu cá Ichiemon). Tương tự, với tấm lòng khoan dung, trước những lời cầu xin tha thứ chân thành của quỷ nước Kappa, Jutaro sau khi bắt nó hứa không hãm hại con người nữa, đã tha thứ cho nó (Thuốc mỡ của quỷ nước). Mặc dù người làm vườn tỏ ra tham lam và bất kính với mình, nhưng sư trưởng của ngôi đền vẫn tỏ ra khoan dung, độ lượng, đọc bài kinh để giải thoát cho người làm vườn khỏi sự trừng phạt (Cây anh đào của đền Ankokuji). Sau 20 năm ròng bỏ sức lực ra tìm kiếm Đức Phật sống để cầu xin sự tha thứ vì những tội lỗi mình đã gây ra trong quá khứ, khi đã già yếu và kiệt sức, Emonsaburo đã gặp được Đức Phật trong một giọng nói ấm áp, đầy tình thương. Nhà sư – Phật sống đã mang đến cho Emonsaburo đang hấp hối sự tha thứ của Đức Phật, để ông có thể nhẹ nhàng, thanh thản đi sang thế giới bên kia. Câu chuyện như muốn nói rằng: “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy lại” – mọi sự hối hận đều không bao giờ bị coi là muộn (Sự tích chùa Ishiteji). Truyện Con cáo và ông lão, cũng là một motif về sự tha thứ. Ông lão lương thiện đã khoan dung, tha chết cho tội lỗi của một con cáo, sự rộng lòng ấy đã khiến ông trở nên giàu có nhờ sự giúp đỡ của con cáo. Còn truyện Giấc mơ thì kể về sự khoan dung, độ lượng của một người vợ khi biết được chồng mình chết như thế nào từ người tình của anh, người vợ tha thứ để mong rằng người chồng của mình ở thế giới bên kia có được sự thanh thản…
Mô-típ tha thứ được người Nhật Bản sử dụng nhằm mục đích đề cao sự khoan dung, nhân ái của con người. Hướng con người tới chân-thiện-mĩ.
5. Mô-típ sự đền ơn:
Là một dân tộc có tinh thần đề cao ân nghĩa nên đây cũng là một mô-típ phổ biến trong truyện cổ tích Nhật Bản. Để chuộc lại lỗi lầm của mình và để cảm tạ lòng tốt của chàng câu cá Ichiemon (đã lén uống rượu của Ichiemon và được chàng tha thứ), con quỷ nước Kappa đã giúp anh bất cứ khi nào đi câu cũng được nhiều cá như mong muốn, điều ấy giúp cuộc sống của Ichiemon ngày càng sung túc hơn (truyện Chàng câu cá Ichiemon). Để đền ơn cho sự đối xử tử tế với mình của Jinbei (điều mà trước đây chưa ai từng làm), con yêu tinh đã nhiều lần giúp chàng khỏi túng thiếu, hoạn nạn, thậm chí giúp chàng trở nên giàu có nhất, hạnh phúc nhất (Con yêu tinh mũi dài thích rượu)…Trong truyện cổ tích Nhật Bản, nhân vật mang ơn đã phải cố gắng rất nhiều và trải qua những thử thách cam go, có khi hy sinh cả mạng sống của mình để trả ơn (VD: Truyện Những con cua của đền Kanimanji, Con cáo và ông lão, Con chim sẻ bị cắt lưỡi, Chiếc nón lá tặng cho Jizo …). Để trả ơn cho sự tốt bụng của cô gái đã cứu sống mình thoát khỏi lũ trẻ nghịch ngợm, khi cô gái lâm vào tình cảnh bị nguy hiểm bởi sự đe dọa của một con rắn, những con cua đã hy sinh cả mạng sống của mình để giết chết con rắn, bảo vệ an toàn cho ân nhân của mình (Những con cua của đền Kanimanji). Một con cáo ăn trộm đậu của một ông lão, sau khi cầu xin và nhận được sự tha thứ của ông lão, con cáo đã chấp nhận hy sinh cả mạng sống của mình để giúp đỡ ông lão (Con cáo và ông lão). Một con chim sẻ bị một cành cây đè gãy cánh, có một ông lão nhân từ bắt gặp đưa chim về nhà chữa vết thương và chăm sóc cho nó bình phục. Nhớ ơn ông lão chim đã tặng cho ông nhiều của cải quý giá (Con chim sẻ bị cắt lưỡi). Để đền ơn cho đôi vợ chồng già nghèo khổ nhưng tốt bụng, luôn giúp đỡ, xẻ chia với người khác, 6 pho tượng Jizo đã đem đến cho họ những quà tặng trong năm mới, kể từ đó họ sống hạnh phúc, no đủ mãi mãi (Chiếc nón lá tặng cho Jizo)…
Có thể thấy rằng trong truyện cổ tích Nhật Bản mô-típ đền ơn rất đậm nét, sở dĩ như vậy là do nhân vật trong truyện cổ tích Nhật Bản rất trọng tín nghĩa, đã mang ơn ai thì thế nào cũng phải tìm cách trả ơn, kể cả phải đổi bằng chính tính mạng của mình.
6. Mô-típ sự hối hận:
7. Mô-típ sự thông thái:
Người Nhật Bản rất coi trọng sự, thông thái, vì thế mô-típ ca ngợi sự thông thái xuất hiện nhiều trong truyện cổ tích Nhật Bản (VD: Hai anh em, Một cuộc thi tài, Núi của những người già, Những con Tanuki ở chùa Shojoji, Chữa bệnh tắt mắt…). Truyện Hai anh em là một truyện cổ tích điển hình đề cao giá trị của sự thông thái. Gia tài kếch xù của người cha cuối cùng không thuộc về người em mải mê buôn bán kiếm lời, mà thuộc về người anh, vì người anh sau khi lang thang tới nhiều vùng miền khác nhau của đất nước, tiêu hết số tiền mà người cha đã đưa, anh đã tiếp xúc với nhiều người và học được nhiều điều hay trong thế giới này. Anh trở thành một người khác trước với nhiều hiểu biết phong phú, nhất là sự từng trải đã khiến cho anh có khả năng làm điều tốt và tránh khỏi những điều xấu. Anh đã chứng minh được cho người cha thấy kiến thức của anh là vô giá. Và người cha đã tin tưởng, ký thác toàn bộ sản nghiệp cho anh. Sự thông thái còn được ca ngợi trong truyện Núi của những người già, một bà lão với sự thông minh, dày dạn kinh nghiệm sống đã giúp đất nước 3 lần thoát khỏi chiến tranh, đã khẳng định cho lãnh chúa biết thế nào là sự cần thiết trong học hỏi kinh nghiệm của người già, và không phải người già là vô dụng và không gánh vác được công việc. Lãnh chúa đã thức tỉnh, hiểu được giá trị của những người già, quyết định hủy bỏ điều luật tàn ác đối với người già áp dụng trước đó. Tương tự vậy, Một cuộc thi tài cũng là câu chuyện đề cao trí tuệ. Truyện khẳng định một nhà nghệ sĩ tài năng thường dùng nhiều thời gian để ngẫm nghĩ hơn là làm những công việc chân tay tầm thường. Sau cuộc thách đố để so tài cao thấp, anh thợ Seishichi sau khi đã tiêu tốn hết thời gian vào rượu chè say sưa đã dùng một mẹo nhỏ để chiến thắng anh thợ Heishiro – người mà ngày đêm dành hết thời gian và công sức của mình để hy vọng tạo ra được một kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất hòng chiến thắng trong cuộc thi. Truyện Những con Tanuki ở chùa Shojoji là truyện ca ngợi sự thông minh trong xử sự của nhà sư đã quy phục được những con Tanuki chuyên bày trò phá phách chùa, đây là điều mà các nhà sư trước đó không làm được, sự ngoan cố và phá phách của chúng đã khiến họ không chịu đựng được và phải bỏ đi. Cũng xu hướng đề cao tri thức, người thầy lang thông minh trong truyện Chữa bệnh tắt mắt đã tỏ ra xuất sắc hơn người khi chỉ bằng một mẹo nhỏ chế biến thành công thuốc chữa thói hay ăn trộm của đứa con trai một bà lão – một căn bệnh lạ lùng nhất mà ông từng chứng kiến trong cuộc đời làm thấy thuốc của mình. Câu chuyện như muốn khẳng định có tri thức thì làm được tất cả, người có trí tuệ sẽ thành công trong cuộc sống, sẽ giải quyết được tất cả mọi vấn đề cho dù vấn đề đó có khó đến đâu đi chăng nữa.
8. Mô-típ sự dũng cảm:
Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng kiểu nhân vật tiêu biểu, phổ biến trong truyện cổ tích Nhật là những nhân vật bình dị mà dũng cảm, mạnh mẽ và dám đương đầu. Trong truyện Kintaro, một lần vào rừng sâu gặp gấu dữ tợn – trong khi tất cả các con vật đều run lên sợ hãi – thì Kintaro đã bình tĩnh một mình giao chiến với gấu, bằng sức mạnh kỳ lạ, Kintaro đã nâng con gấu khổng lồ lên quá đầu, gấu vô vọng đầu hàng và trở thành một người bạn tốt của Kintaro; Mặc dù chỉ lớn hơn một ngón tay út, nhưng anh chàng tí hon Issum Boshi là một chàng trai có nhiều hoài bão và dũng cảm, trái tim chàng luôn hướng về mục đích trở thành một samurai vĩ đại. Tuy đã nghe nhiều tin đồn về một lũ quỷ ghê gớm thường đến vào ban đêm và bắt cóc những cô gái trẻ nhưng Issum Boshi cũng tình nguyện cùng bảy người khỏe nhất đi theo bảo vệ tiểu thư Naru khi nàng đi thăm đền Kiyomizu. Và khi đối diện trước con quỷ đỏ khổng lồ, gớm giếc với cái sừng gồ ghề, những cái vuốt dài và những cái răng nanh nhọn hoắt, trong lúc tất cả mọi người đều hoảng hốt bỏ chạy thừa sống thiếu chết, thì Issum Boshi đã ở lại và bảo vệ an toàn mạng sống cho tiểu thư Naru đang sợ chết khiếp. Sự dũng cảm ấy được đền đáp bằng một lễ cưới linh đình và một cuộc sống hạnh phúc với tiểu thư Naru (Issum Boshi – anh chàng Samurai tí hon); Với lòng can đảm hơn người, chú bé Momotaro đã quyết tâm lên đường diệt bọn yêu tinh độc ác ở đảo “Yêu tinh”, chúng đã quấy phá hoành hành bấy lâu nay, gây hại và làm đảo lộn cuộc sống của con người nhưng con người không làm gì được chúng. Trên đường đi, bằng sự dũng cảm, mạnh mẽ, tự tin của mình, chú bé đã thu phục được một con chó hoang, một con khỉ và một con đại bàng cùng nhập cuộc. Họ đã hợp sức đánh bại lũ quỷ, khiến cho lũ quỷ hoàn toàn đầu hàng và hết sức cảm phục sức mạnh vĩ đại của họ (Chú bé trái đào Momotaro).
9. Mô-típ sự khỏe mạnh:
Nhân vật được mô tả như những con người có sức khỏe phi thường cũng là mô-típ dễ bắt gặp trong truyện cổ tích Nhật Bản. Trong truyện Kintaro, Kintaro được mô tả như sau: “Ngay khi còn ẵm ngửa, nó đã khỏe không thể tưởng tượng được. Khi đứa bé biết bò, nó đã thật sự có sức khỏe của một người đàn ông trưởng thành”. Cậu bé Kintaro thường chơi và đua tài với các bạn bè thú rừng, “thỉnh thoảng chúng đấu vật, nhưng tất nhiên là Kitaro luôn luôn chiến thắng”. “Khi mùa đông đến, tất cả các con vật đều chui vào hang và run cầm cập. Nhưng thời tiết băng giá dường như không ảnh hưởng tới thân thể Kintaro. Chú có thể chạy băng qua rừng hoặc té nước thỏa thích và vui vẻ ở sông. Trong những cơn bão tuyết mùa đông, chú có thể đứng ngoài trời cả đêm để giữ cho cái nhà của mẹ chú khỏi bay đi”. Và chỉ bằng sức mình, cậu bé Kintaro đã nhổ một cây cổ thụ bắc ngang qua hẻm núi tạo thành một cái cầu hoàn hảo. Gặp gấu khổng lồ, hung dữ, Kintaro đã dũng cảm giao chiến và “với sức mạnh kỳ lạ, nó nâng con vật khổng lồ lên quá đầu. Con gấu cào chân một cách vô vọng ở trên không”. Hành động của Kintaro khiến cho các bác thợ săn và những người hái củi từ mấy dặm xung quanh trầm trồ, thán phục, trở về làng với câu chuyện không thể tin được mà họ vừa chứng kiến: “Một thằng nhóc mặc một chiếc áo đỏ thêu vàng, với chiếc rìu trên vai, đã giơ cao một con gấu khổng lồ lên khỏi mặt đất và bắt nó phải hàng phục”. Kintaro đã lớn lên “cao lớn và khỏe mạnh không ai sánh nổi. Khi chú trở thành một chàng trai thật sự, chú đã nổi danh vĩnh viễn, trở thành một Samurai dũng cảm và vô địch”.
10. Mô-típ về trời:
Các nhân vật về trời là những nhân vật vốn là người trời xuống trần gian thực hiện một sứ mệnh nào đó hoặc vì một lý do khách quan (mất áo, mất cánh) không thể quay về trời được, sau khi hoàn thành sứ mệnh hoặc tìm thấy bộ áo, bộ cánh, nhân vật bay về trời. Motif về trời xuất hiện trong các truyện: Nữ thần nhà trời, Công chúa Kaguya, Hiko Boshi và Ôri Himê… Vốn là một nữ thần nhà trời xuống trần gian tắm, bị mất chiếc áo khoác thần tiên, sau khi tìm thấy áo, nàng bay về trời (Nữ thần nhà trời). Sống hạnh phúc với cha mẹ nuôi nơi trần thế, dù thâm tâm không muốn nhưng đến hạn cô cũng phải quay về trời trong niềm tiếc thương vô hạn của cha mẹ nuôi (Công chúa Kaguya). Hoàn cảnh thần kỳ cũng là yếu tố tạo nên sự gặp gỡ lạ thường với người phàm trần với tiên nữ như sự gặp gỡ của chàng trai và nàng tiên trong truyện Hiko Boshi và Ôri Himê, Ôri Himê vốn là một công chúa trên thiên đình, một hôm xuống trần gian tắm và bị Hiro Boshi lấy trộm mất áo thiên đình, ở lại kết hôn cùng Hiro Boshi, khi tìm thấy áo, cô bay về trời. Có thể nói, bộ áo cánh của nàng tiên bị chàng trai giấu đi đã trở thành cầu nối cho hạnh phúc, đồng thời nó cũng là nguyên nhân tạo nên sự xa cách, chia ly giữa hai người. Dù là người trên trời hay trần gian, dù tự nguyện kết hôn hay do hoàn cảnh đưa đẩy thì giữa chàng trai và nàng tiên khi sống với nhau đều rất yêu nhau và có khoảng thời gian sống rất hạnh phúc.
Qua tìm hiểu chúng tôi thấy rằng cuộc hôn nhân giữa những người trần tục và thần tiên thường không lâu bền, bởi sau một thời gian quên lãng tất cả để sống trong hạnh phúc thì nhân vật bắt đầu buồn nhớ quê hương, làng xóm, người thân… nếu là tiên trên trời thì khi tìm thấy bộ cánh (bộ áo) họ sẽ bay về trời, còn nếu là người trần gian thì họ nhất định từ bỏ cuộc sống thần tiên để quay về. Có thể thấy rằng, đi đến một thế giới khác, khám phá nó và chinh phục nó, đó chính là khát vọng chung của con người ở mọi dân tộc. Nhưng không ai có thể quên hẳn cuộc sống nơi mình đã sinh ra để trú ngụ ở một thế giới khác dù nó có hấp dẫn đến đâu. Đó chính là lòng yêu đời, yêu mảnh đất quê hương và sự gắn bó đã trở thành máu thịt với cuộc sống thực trong tầm tay họ. Đó là một tinh thần thực tế rất bình dân ở người Nhật, đồng thời đó cũng là tình cảm chung của những nghệ sĩ dân gian sáng tạo truyện cổ tích.
11. Mô-típ diệt yêu quái:
Yêu quái được miêu tả trong các truyện cổ tích Nhật Bản chủ yếu là những con quỷ, chúng thường xuyên quấy nhiễu cuộc sống con người, gây bất lợi cho cuộc sống của họ. Để thu phục và tiêu diệt bọn quỷ không phải bất cứ nhân vật nào cũng đảm nhiệm được, gánh vác trọng trách lớn lao ấy phải là những nhân vật gan dạ, khỏe mạnh, dũng cảm. Những nhân vật ra tay tiêu diệt bọn quỷ độc ác trong truyện cổ tích Nhật Bản rất đặc biệt, đó là chú bé tí hon trong truyện Chú bé trái đào Momotaro, đó là Isum Boshi, anh chàng samurai tí hon… Với vóc hình nhỏ bé nhưng khát vọng, ước mơ của họ thật lớn lao. Hành động tiêu diệt quỷ của Isum Boshi trong truyện Isum Boshi, anh chàng samurai tí hon gắn liền với việc nghĩa cao cả đó là cứu người – cứu tiểu thư Naru xinh đẹp (câu chuyện thuộc mô-típ diệt yêu quái – cứu người đẹp). Còn hành động tiêu diệt lũ quỷ của Momotaro là hành động xả thân vì cộng đồng, Momotaro đã tiêu diệt bọn quỷ, cứu mọi người thoát khỏi cảnh bị bọn quỷ độc ác cướp của và ăn thịt (Chú bé trái đào Momotaro)…
Cả hai truyện đều xuất hiện mô-típ diệt yêu quái nhưng cả hai đều nhấn mạnh vào sự thông minh, ca ngợi trí tuệ, nhân vật đã dùng mẹo để đưa lũ quỷ vào bẫy, khiến cho bọn chúng phải quy hàng. Điều này một lần nữa cho thấy người Nhật Bản rất coi trọng sự thông minh, thông thái.
12. Mô-típ người câm:
Mô-típ người câm tuy không phổ biến nhưng cũng thấy xuất hiện trong truyện cổ tích Nhật Bản. Truyện Nữ thần nhà trời kể về một nữ thần trên trời xuống trần gian tắm, để áo tiên trên bờ thì bị một chàng trai lấy trộm áo, khi biết chiếc áo đã vào tay một lãnh chúa, để lấy lại áo nàng đã phải giả câm, tìm cách đột nhập vào nhà lãnh chúa, chờ cơ hội và khi lấy lại được áo, nàng bay về trời. Đây là mô-típ nhân vật giả câm để tìm cách đoạt lại những thứ mà mình bị mất (chiếc áo tiên). Còn truyện Bức hình người đẹp là mô-típ nhân vật do bị tước đoạt hạnh phúc nên giả câm, và chỉ hết câm khi tìm lại được hạnh phúc của mình: từ khi người vợ xinh đẹp của Hyuroku bị bắt về hoàng cung của lãnh chúa, nàng chẳng nói chằng cười, khiến lãnh chúa rất buồn… cho đến một hôm khi nghe tiếng rao của chồng, người phụ nữ xinh đẹp đã cười nói vui vẻ như chưa từng bị câm trước đó… cái nút được tháo gỡ, nhân vật hết câm khi được đoàn tụ với chồng của mình và kẻ gian ác phải trả giá cho hành động sai trái.
14. Mô-típ người tí hon:
Motif người tí hon được thấy qua các truyện: Chú bé trái đào Momotaro, Isum Boshi, anh chàng samurai tí hon, Công chúa Kaguya, Cái áo tàng hình của quỷ Tengu, Vì sao nước biển lại mặn. Đó là một chú bé nhỏ đúng bằng một quả đào, từ trong quả đào nhảy ra trong truyện Chú bé trái đào Momotaro. Đó là một chú bé không lớn hơn một ngón tay út trong truyện Isum Boshi, anh chàng samurai tí hon. Đó là một cô bé tí hon chỉ cao độ 3 centimet chui ra từ ống tre trong truyện Công chúa Kaguya. Đó là cậu bé tí teo nhưng hết sức thông minh và tinh nghịch đã dùng mẹo chiếm được chiếc áo tàng hình của quỷ Tengu và bày ra nhiều trò nghịch phá mọi người xung quanh trong truyện Cái áo tàng hình của quỷ Tengu. Đó là đám người tí hon sống trong hang núi mà đối với họ một người vóc dáng bình thường trở thành một người khổng lồ (Vì sao nước biển lại mặn). Với vóc hình nhỏ bé nhưng ở họ đều chứa đựng những khát khao lớn lao và có những đóng góp to lớn cho cộng đồng. Đó cũng là ước mơ chinh phục những điều lớn lao được tác giả dân gian gửi gắm qua truyện cổ tích.
LÊ THỊ QUỲNH HẢO
(Khoa Đông phương – Đại học Đà Lạt)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Eiichi Aoki, Nhật Bản, đất nước và con người, Nxb văn học, Hà Nội, 2006.
2. Félician Challaye, Truyện cổ Nhật Bản, Nxb Trẻ, Tp. HCM, 2004.
3. Nhật Chiêu, Truyện cười Nhật Bản, Nxb Mũi cà Mau, 1987.
4. Nguyễn Văn Dân: Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb KHXH, Hà Nội, 2004.
5. Chu Xuân Diên, Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Trường Đại học Tổng hợp, Tp. HCM, 1987.
6. Dương Ngọc Dũng, Chuyên luận Nhật Bản học, Nxb Tổng hợp, Tp HCM, 2008
7. Nguyễn Bích Hà, Tuyển tập truyện cổ tích Nhật Bản, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999.
8. Hà Văn Lưỡng, Sự tiếp nhận văn học Nhật Bản ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2 (96), 2009.
9. Bùi Văn Ngân, Ngược dòng lịch sử, tìm hiểu cội nguồn, bản lĩnh, bản sắc dân tộc Nhật qua thư tịch và truyện cổ dân gian, Tạp chí Văn học số 1, 1999, tr. 4-6.
11. Bùi Mạnh Nhị, Phân tích tác phẩm văn học dân gian, Sở Giáo dục An Giang, 1988.
12. Lê Hồng Phong, “Về sự vận động của văn học dân gian”, Văn học Việt Nam thế kỷ XX (nhiều tác giả), Nxb Văn hóa Dân tộc, 2002.
13. Lê Phong, “Truyện cổ Tây Nguyên và truyện cổ Đông Nam Á – một số motif chung”, Lang Bian, (36), 2002.
14. Lê Phong, “Về nhân vật tôn giáo trong truyện cổ tích”, Tạp chí Văn học, (1), 1993.
15. Đặng Đức Siêu, Tinh hoa văn hóa phương Đông, Nxb Giáo dục, 2007
16. Lại Văn Toàn (Chủ tịch Ban biên tập), Văn học Nhật Bản, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
Một Số Đề Đọc Hiểu Ngữ Văn 11
Đề bài Nêu các phương thức biểu đạt chính, phong cách ngôn ngữ,các kiểu câu ( xét về mục đích nói ) trong đoạn văn, ý nghĩa của đoạn văn sau 1.”Hai đứa trẻ”-Thạch Lam Từ” Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ” đến “muỗi đã bắt đầu vo ve” (trang 122) 2.”Chữ người tử tù”-Nguyễn Tuân “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn…run run bưng chậu mực”(trang 148) 3.”Chí Phèo” – Nam Cao “Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu …Chao ôi là buồn!”(trang 182) 4.Vội vàng-Xuân Diệu Đáp án 1. hai đứa trẻ Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve. – Phương thức biểu đạt : Miêu tả -Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật -Theo mục đích nói :Sử dụng kiểu câu trần thuật -Ý nghĩa: Miêu tả cảnh phố huyện lúc chiều tà, đó là 1 buổi chiều thanh bình, êm ả …làm nền cho tâm trạng nhân vật Liên. Tác giả chọn thời khắc hoàng hôn – ngày tàn. Cảnh mỗi lúc một tối hơn. Ánh sáng lụi tàn dần. Bóng tối bắt đầu lan tỏa khắp nơi: trên cái chòi, đám mây và lũy tre làng và bao trùm lên cảnh vật, gợi lên từ âm thanh của “tiếng trống thu không (…) vang ra từng tiếng để gọi buổi chiều”, gợi lên từ màu sắc: “Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Đó là cảnh vật phố huyện nghèo nàn, xơ xác tiêu điều: tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái kêu ran, cảnh chợ tàn, trên nền đất chỉ còn rác rưởi, một miền đất như đang lụi tàn trong quên lãng. 2.”chữ người tử tù “-Nguyễn Tuân “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Trong một không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc toả cay mắt, làm họ dụi mắt lia lịa. Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gày gò, thì run run bưng chậu mực.” – Phương thức biểu đạt :Tự sự -Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật -Theo mục đích nói :Sử dụng kiểu câu trần thuật Vẻ đẹp của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục: Một người hiên ngang, đĩnh đạc, ung dung dậm tô nét chữ. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối,là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ 3.chí phèo Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu. Mặt trời đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ. Ở đây người ta thấy chiếu lúc xế trưa và gặp đêm thì bên ngoài vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng hắn đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!
– Phương thức biểu đạt :tự sự, miêu tả, biểu cảm
-Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
-Các kiểu câu ( xét về mục đích nói ): câu trần thuật Câu cảm thán:Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá!Chao ôi là buồn! 4.vội vàng -Xuân Diệu Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoaì xuân. – Phương thức biểu đạt: biểu cảm -Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật -Các kiểu câu ( xét về mục đích nói ): câu trần thuật, câu cảm thán -Ý nghĩa đoạn thơ: +Cuộc sống trần gian hiện lên qua đó thật sống động, tươi tốt, đáng yêu, tràn ngập âm thanh, màu sắc , đó là một thiên đường trên mặt đất +Bộc lộ tình yêu thiên nhiên, yêu đời, tâm trạng vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu khi sống giữa cuộc đời này Của ong bướm này đây tuần tháng mật: Những từ ngữ biểu hiện nghĩa sự việc :Của ong bướm này đây tuần tháng mật Nghĩa tình thái:bề ngoài thì khách quan, trung hòa về cảm xúc nhưng trong lòng tác giả đang rất hồ hởi, vui tươi đón nhận cuộc sống, sự cảm nhận cuộc sống lúc nào cùng ngọt ngào như tuần trăng mật…
Một Số Dạng Đề Đọc Hiểu Và Định Hướng Kỹ Năng Làm Bài
Một số dạng đề Đọc hiểu và định hướng kỹ năng làm bài Theo định hướng của Bộ GD về cách ra đề thi TNTHPT môn văn , thì các câu hỏi phần đọc hiểu tập trung vào một số khía cạnh như:1. Kiểm tra kiến thức Tiếng Việt: Dạng đề này thường cho một đoạn văn có sai sót và cho học sinh nhận biết từ đó trả lời các câu hỏi. Các lỗi sai trong văn bản : – Lỗi về câu (lỗi cấu tạo câu; lỗi dấu câu; lỗi liên kết câu) – Lỗi về từ (lặp từ; từ không đúng nghĩa; từ không phù hợp phong cách) – Lỗi đoạn văn (lỗi về nỗi dung; lỗi về hình thức ) – Lỗi chính tả (lỗi do phát âm; lỗi do không nắm vững quy tắc chính tả ) * Lưu ý : Trong một văn bản không chỉ có một loại lỗi mà thường xuất hiện đồng thời nhiều loại lỗi.Kỹ năng xác định lỗi trong đoạn văn bản: – Đọc kỹ văn bản. Xác định nội dung và thể loại, phong cách văn bản . – Phân tích cấu tạo câu (các thành phần của câu) – Xem xét vị trí các câu và sự liên kết câu trong văn bản. – Xem xét về lỗi chính tả và cách sử dụng từ ngữ. Ví dụ: Đọc đoạn văn bản sau đồng thời anh, chị hãy chỉ ra những sai sót về ngữ pháp, chính tả, cách dùng từ, tính logic…trong đoạn văn đó : “… cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có linh hồn với những tính cách đối địch: vừa hung bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân cách hóa những đặc điểm vốn có của giòng sông thiên nhiên mà chực quan có thể nhìn thấy”. – Cách phát hiện lỗi sai : Với hình thức hỏi như trên, sau khi đã đọc kỹ văn bản, xác định được cấu tạo câu và sự liên kết câu cũng như thể loại, phong cách ngôn ngữ và hình thức chính tả và cách trình bày,cách dùng từ ,chữ viết.. ta có thể trả lời như sau: + Sai ngữ pháp: Câu thứ nhất trong đoạn văn. Sai chính tả: dữ rằn; giòng sông; chực quan + Dùng từ sai: đối địch. Sai logic: vừa hung bạo, vừa dữ dằn2. Nhận biết nội dung chính và các thông tin quan trọng của văn bản; hiểu ý nghĩa của văn bản, tên văn bản: Loại đề này đòi hỏi HS kỹ năng tóm tắt văn bản, trình bày mạch lạc, bám sát văn bản gốc. Đồng thời, phải hiểu được ý nghĩa của những khái niệm quan trọng trong ngữ liệu.Ví dụ: Văn bản sau nói về vấn đề gì ? Đặt tên cho văn bản… “Ở người lớn tuổi ít vận động cơ bắp, nếu chế độ ăn giàu chất colesteron (thịt, trứng, sữa…) sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, colesteron ngấm vào thành mạch kèm theo các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, xơ cứng và vữa ra. Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Động mạch xơ vữa còn dễ bị vỡ gây các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây chết người”. (Sinh học – lớp 8. NXB Giáo Dục 2007) – Đối với ví dụ trên, ta thấy: đoạn văn nói đến căn bệnh xơ vữa động mạch và nguyên nhân dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch. Vì vậy ta có thể đặt tên cho đoạn văn bản đó là: “Bệnh xơ vữa động mạch và hậu quả của nó” hoặc “Đề phòng với xơ vữa động mạch”.Cách đọc và nhận biết văn bản đối với dạng câu hỏi này: + Đọc kỹ đoạn văn bản của đề ra. + Tìm và gạch dưới những từ ngữ nào được lặp đi lặp lại nhiều lần văn bản ( đây là những từ mà người viết có ý nhấn mạnh thông tin muốn nói). Tìm hiểu nội dung của những từ ngữ đó nói về điều gì ? + Xác định mối quan hệ ngữ pháp (các câu và các thành phần phụ của câu trong đoạn văn bản). + Từ đó xác định được nội dung chính của đoạn văn bản và đề xuất cách đặt tên cho văn bản.3. Nhận diện những biện pháp nghệ thuật trong đoạn văn bản và tác dụng của những biện pháp nghệ thuật đó với việc thể hiện nội dung văn bản: Với dạng câu hỏi này HS cần:
Ôn lại kiến thức về các biện pháp tu từ từ , tu từ về câu và tác dụng của các biện pháp tu từ khi được sử dụng trong văn bản như:
– So sánh: đối chiếu sự vật này với sự vật khác có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình biểu cảm. – Ẩn dụ: Gọi tên sự vật hiện tượng khác có nét tương đồng nhằm tăng sức gợi hình gợi cảm.. . – Nhân hóa: cách gọi tả vật, đồ vật..v.v bằng những từ ngữ vốn dùng cho con người làm cho thế giới vật, đồ vật … trở nên gần gũi biểu thị được những suy nghĩ tình cảm của con người. – Hoán dụ: gọi tên sự vật hiện tượng khái niệm khác có quan hệ gần gũi với nó. – Nói quá: Biện pháp tu từ phóng đại mức độ qui mô tính chất của sự vật hiện tượng được miêu tả để nhấn mạnh gây ấn tượng tăng tính biểu cảm. – Nói giảm nói tránh: dùng cách diễn đạt tế nhị uyển chuyển tránh gây cảm giác phản cảm và tránh thô tục thiếu lịch sự. – Điệp ngữ: lặp lại từ ngữ hoặc cả câu để làm nối bật ý gây cảm xúc mạnh. – Chơi chữ: Cách dựa vào những đặc sắc về âm và về nghĩa của từ ngữ để tạo sắc thái dí dỏm hài hước.
Ôn, nắm vững các đặc điểm về cách cách gieo vần, phối thanh, ngắt nhịp …trong văn bản văn học.
Trong đoạn trích trên, có một số lỗi sai về chính tả và một lỗi ngữ pháp câu. Hãy chỉ ra lỗi và sửa lại cho đúng (0,5 điểm).
Lý thuyết bên bờ vực được nhắc tới ở trên có những đặc điểm gì? (0,5 điểm).
HƯỚNG DẪN
+ Lỗi sai về chính tả: chông, rễ, gia+ Lỗi sai về ngữ pháp: Gọi là lý thuyết bên bờ vực. – Sửa lại cho đúng: + Chính tả: trông, dễ, ra+ Ngữ pháp: thêm dấu phảy đằng trước, coi câu này chỉ là một bộ phận của câu. Câu hoàn chỉnh sẽ là: Tôi có một lý thuyết cho cá nhân tôi, gọi là lý thuyết bên bờ vực. * Lưu ý: Chấp nhận cả phương án học sinh thêm từ vào trước câu để câu này đúng ngữ pháp. Ví dụ: Đó là….; Tôi gọi là….; Nó gọi là….
Đặc điểm của lý thuyết trên bờ vực
+ Không bao giờ làm việc gì dễ, không làm việc gì mà người khác có thể ngay lập tức làm giống như mình được. + Khiến kẻ định cạnh tranh với mình không dám theo ra mép vực để cạnh tranh và kẻ thù cũng không dám theo mình ra mép vực.*Lưu ý: Chấp nhận cả phương án học sinh trích nguyên văn hai câu văn có nêu đặc điểm trên, tuy nhiên lỗi chính tả phải được sửa.
Văn bản nói về hiện tượng một bộ phận thanh niên mải chạy theo những nhu cầu về vật chất, không chú trọng đến đời sống văn hóa tinh thần.
Thành ngữ: phong ba bão táp, chỉ những khó khăn, gian khổ.
Chữ “mỏng” được hiểu là sự yếu đuối, kém cỏi về đạo đức, nhân cách, nghị lực, sức mạnh, bản lĩnh, ý chí,… không đủ sức chống đỡ những thử thách gian khổ trong cuộc sống.
– Viết đoạn văn trình bày suy nghĩ về quan niệm : “Còn gì đáng buồn hơn khi mà giàu có về vật chất thì lại nghèo nàn đến thảm hại về văn hóa tinh thần”.
+ Nội dung: Đây là dạng đề mở, thí sinh có thể đồng tình với quan niệm, có thể không đồng tình nhưng cần đưa ra lí lẽ thuyết phục trên tinh thần bàn luận nghiêm túc, thiện chí. + Hình thức: Đảm bảo yêu cầu về hình thức và số câu theo quy định.
– Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.
Các hình ảnh “nhà dột”, “gió lùa bốn bên”, “những đêm trắng trời” diễn tả cuộc sống vất vả, khó nhọc, gian lao của người mẹ.
Hai câu cuối thể hiện nỗi niềm của người con: tình yêu thương vô bờ bến với người mẹ và nỗi day dứt, xót xa, ân hận đậm chất nhân văn về tình đời, tình người.
Tìm Hiểu Chung Về Bài Thơ Sóng
1. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
– In trong tập Hoa dọc chiến hào.
– Xuân Quỳnh sáng tác bài thơ trong chuyến đi thực tế vùng biển Diêm Điền (29/02/1967).
b. Bố cục( 4 phần):
– Phần 1 (khổ 1+2) : Sóng – Khát vọng tình yêu của người con gái.
– Phần 2 (khổ 3+4) : Ngọn nguồn của sóng – Truy tìm sự bí ẩn của tình yêu.
– Phần 3 (khổ 5+6+7) : Sóng – Nỗi nhớ thủy chung trong tình yêu.
– Phần 4 (Khổ 8+9) : Những suy tư về cuộc đời và khát vọng trong tình yêu.
2. Giá trị nội dung và nghệ thuật
a. Giá trị nội dung:
Qua hình tượng sóng, trên cơ sở khám phá sự tương đồng, hòa hợp giữa sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Từ đó thấy được tình yêu là một tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.
b. Giá trị nghệ thuật:
– Bài thơ mang âm hưởng dạt dào, nhịp nhàng, gợi nhịp độ của con sóng liên tiếp.
– Thể thơ 5 chữ với những dòng thơ thường là không ngắt nhịp, các câu thơ ngắn, đều đặn gợi sự nhịp nhàng.
– Thành công trong việc xây dựng hình tượng sóng: hình tượng sóng trở đi trở lại với nhiều cung bậc, gợi nhũng trạng thái cảm xúc đa dạng trong cõi lòng người con gái đang yêu.
Bạn đang xem bài viết Tìm Hiểu Một Số Mô trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!