Top 11 # Bài Thơ Cảnh Khuya Có Bố Cục Như Thế Nào Quan Hệ Giữa Các Phần Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Đọc Một Bài Thơ Như Thế Nào

Edward Hirsch là nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ. Sinh năm 1950 ở Chicago, ông lấy bằng tiến sĩ ngành văn học dân gian tại Đại học Pennsylvania và dạy văn học Anh tại Đại học Wayne State và Đại học Houston trước khi được bổ nhiệm làm chủ tịch Quỹ John Simon Guggenheim vào năm 2002. Ông được trao giải thơ của Hiệp hội Phê bình Sách Quốc gia Mỹ năm 1986.

Đọc thơ tốt một phần là thái độ một phần là kỹ thuật. Hiếu kỳ là một thái độ hữu ích, đặc biệt là khi nó không chứa những tư tưởng định trước về thơ là gì hay nên là gì. Kỹ thuật hiệu quả hướng sự hiếu kỳ của ta đến đặt câu hỏi, kéo ta vào cuộc trò chuyện với thơ.

Bắt đầu: Các tiền giả định

Hầu hết độc giả đều đưa ra ba giả định sai lầm khi giải quyết một bài thơ không quen thuộc. Thứ nhất là giả định rằng họ cần hiểu cái họ gặp trong lần đọc thứ nhất, nếu họ không hiểu thì họ hoặc bài thơ có vấn đề. Thứ hai là giả định rằng thơ là một loại mã, rằng mỗi chi tiết tương ứng với một và chỉ một điều, và nếu không thể phá mã thì họ không hiểu nó. Thứ ba là giả định rằng thơ có thể mang bất cứ ý nghĩa nào mà độc giả muốn.

William Carlos Williams đã viết một đoạn gửi vợ mình trong bài thơ “January Morning” (“Sáng tháng Giêng”):

All this- was for you, old woman. I wanted to write a poem that you would understand. For what good is it to me if you can't understand it? but you got to try hard-

Williams thừa nhận trong những dòng này rằng thơ thường rất khó. Ông cũng gợi ý rằng một nhà thơ thì phụ thuộc vào nỗ lực của độc giả; bằng cách này hay cách khác, độc giả phải “hoàn thành” những gì mà nhà thơ đã bắt đầu.

Hành động hoàn thành này bắt đầu khi ta bước vào lối chơi giàu tưởng tượng của một bài thơ, mang đến nó trải nghiệm và góc nhìn của ta. Nếu thơ là “chơi” theo nghĩa một trò chơi hay một môn thể thao, thì ta thích thú việc nó khiến ta vận động đôi chút, việc nó làm ta đổ mồ hôi đôi chút. Đọc thơ là một thách thức, nhưng như rất nhiều thứ khác, nó cần thực hành, và các kỹ năng và hiểu biết của ta cải thiện khi ta thực hành.

Văn chương là, và luôn là, sự chia sẻ trải nghiệm, sự tổng hợp hiểu biết của con người về sống, yêu, và chết. Những bài thơ thành công chào đón ta, bộc lộ những ý tưởng có thể không quan trọng nhất trong tâm trí tác giả ở thời điểm sáng tác. Thơ tốt nhất có một phẩm chất huyền diệu-cảm giác rằng thơ không chỉ là tổng các thành phần mà còn hơn thế-và ngay cả khi không thể bày tỏ cảm giác này, cái nhiều hơn này, sức mạnh của thơ vẫn không suy giảm.

Thơ nói với ta bằng nhiều cách. Dù có thể hình thức của thơ không luôn là trực tiếp hay tự sự, hãy nhớ rằng một con người thực sự đã hình thành thời khắc của thơ, và tìm kiếm một sự hiểu biết về thời khắc ấy là khôn ngoan. Đôi khi công việc của thơ là đến gần hơn việc nói những gì không thể nói trong những hình thức khác của viết, là gợi ý một trải nghiệm, ý tưởng, hay cảm giác mà ta có thể biết nhưng không thể biểu đạt hoàn toàn trong bất cứ cách thức trực tiếp hay nguyên nghĩa nào. Kỹ thuật sắp xếp từ ngữ và dòng, âm thanh và nhịp điệu, thêm vào-và trong một số trường hợp, nhân lên-ý nghĩa của từ ngữ vượt ra ngoài nghĩa đen, cho ta một ấn tượng về một ý tưởng hay cảm giác, một trải nghiệm mà ta không thể hoàn toàn diễn đạt bằng lời nhưng biết rằng nó là thật.

Đọc thành tiếng một bài thơ

Trước khi tiến xa hơn với thơ, ta phải đọc nó. Trên thực tế, chỉ cần nhìn vào nó ta cũng có thể biết một số điều. Trước hết, nhan đề có thể cho ta hình ảnh hay liên kết nào đó. Nhìn vào hình dạng của thơ, ta có thể thấy các dòng thơ được viết liên tục hay chia thành nhóm (gọi là khổ), hay các dòng dài đến đâu, và bài thơ đặc, ở mức độ vật lý, như thế nào. Ta cũng có thể thấy nó có trông giống bài thơ cuối cùng mà ta đọc của cùng nhà thơ đó hay thậm chí một bài thơ của một nhà thơ khác hay không. Tất cả đều là những phẩm chất tốt đáng chú ý, và cuối cùng chúng có thể dẫn ta đến sự hiểu biết tốt hơn về thơ.

Nhưng sớm hay muộn, ta sẽ phải đọc bài thơ, từng chữ một. Để bắt đầu, hãy đọc thành tiếng bài thơ. Đọc nhiều hơn một lần. Lắng nghe giọng mình, nghe âm thanh mà từ ngữ tạo nên. Ta có nhận thấy bất cứ hiệu ứng đặc biệt nào hay không? Có chữ nào vần với nhau hay không? Có cụm âm thanh nào có vẻ giống hay tương tự nhau không? Có phần nào có nhịp điệu khác phần còn lại của bài thơ hay không? Đừng lo về việc tại sao có thể bài thơ sử dụng những hiệu ứng này. Bước đầu tiên là lắng nghe những gì đang diễn ra. Nếu thấy giọng mình gây mất tập trung, hãy nhờ một người bạn đọc.

Nói như vậy, có thể ta vẫn không thoải mái khi đọc thành tiếng hay đi qua một bài thơ nhiều hơn một lần. Một phần thái độ này xuất phát từ quan niệm sai lầm rằng ta cần hiểu một bài thơ sau lần đầu tiên đọc nó, trong khi một phần bắt nguồn từ sự ngượng nghịu đơn thuần. Ta có thể đến nơi nào để đọc thành tiếng? Bạn bè nghe được thì sao?

Dòng

Điều gì quyết định một dòng dừng lại ở đâu trong thơ? Dĩ nhiên, có nhiều hơn một câu trả lời cho câu hỏi này. Dòng thường được quyết định bởi ý nghĩa, âm thanh và nhịp điệu, nhịp thở, hoặc kiểu in. Các nhà thơ có thể sử dụng nhiều yếu tố cùng một lúc. Một số bài thơ vận luật theo nghĩa hẹp. Nhưng nếu các dòng không vận luật thì sao? Nếu các dòng bất thường thì sao?

Đôi khi rất khó nhận ra quan hệ giữa ý nghĩa, âm thanh, và chuyển động theo ý định của nhà thơ, nhưng có sự tương tác giữa ngữ pháp của dòng, nhịp thở của dòng, và cách các dòng được ngắt trong thơ-điều này được gọi là ngắt dòng (lineation). Ví dụ, các dòng kết thúc bằng dấu câu, gọi là dòng kết (end-stopped line), thì khá đơn giản. Trong trường hợp đó, dấu câu và cách ngắt dòng, và có lẽ cả nhịp thở, trùng nhau để khiến cách đọc quen thuộc và thậm chí dễ đoán. Nhưng các dòng không phải dòng kết thì mang lại những thách thức khác cho độc giả do chúng kết thúc hoặc bằng một cụm từ hay câu không đầy đủ hoặc ngắt trước khi đến dấu câu. Cách tiếp cận tự nhiên nhất là chú ý chặt chẽ đến ngữ pháp và dấu câu. Đọc đến cuối một cụm từ hay câu, ngay cả khi nó dàn qua một hay nhiều dòng, là cách tốt nhất để giữ lại ý nghĩa ngữ pháp của một bài thơ.

Nhưng sự ngắt dòng còn đưa ra một biến thể nữa được một số nhà thơ vận dụng. Robert Creeley có lẽ được biết đến nhiều nhất vì ngắt dòng không theo những khoảng ngừng ngữ pháp dự kiến. Kỹ thuật này thường đem lại ý nghĩa thứ cấp, đôi khi trong sự đối lập mỉa mai với ý nghĩa thực sự của cụm từ ngữ pháp hoàn chỉnh. Hãy xem xét những dòng này trong bài thơ “The Language” (“Ngôn ngữ”) của Creeley:

Locate I love you some- where in teeth and eyes, bite it but

Đọc những dòng này theo lối viết, đối lập với quan hệ ngữ pháp của chúng, sinh ra một vài ý nghĩa kỳ lạ. “Locate I ” dường như chỉ ra một cuộc truy tìm bản sắc, và quả thật có thể là thế, nhưng dòng tiếp theo, tiếp tục với “love you some-,” lại có vẻ đưa ra một tuyên bố tiêu cực về một mối quan hệ. Bản thân “eyes bite” thì rất rối.

Nghe Creeley đọc thơ của ông thường có thể rất khó chịu, bởi ông dừng ở cuối mỗi dòng, và những khoảng dừng ấy tạo ra một dạng căng thẳng hoặc đối đầu với cấu trúc câu của bài thơ. Có thể lập tức nhận ra phong cách ngập ngừng, do dự, khó thở của ông, và nó thể hiện với các nhà văn những ý tưởng mới về ý nghĩa, thuần túy qua sự ngắt dòng. Nhưng nhiều nhà thơ ngắt dòng không theo các đơn vị ngữ pháp làm như vậy chỉ vì sự châm biếm thị giác, một thứ có thể mất đi trong lúc đọc. Giữa các nhà thơ vần luật, thơ tự do, và cả những nhà thơ thể nghiệm ngày nay, có những người không làm gián đoạn ý nghĩa ngữ pháp khi đọc thơ nhiều như họ làm gián đoạn nó trong kiểu in của thơ. Là độc giả thì phải làm sao? Hãy thử nhiều phương pháp. “Creeley hóa” bất kỳ bài thơ nào cũng rất thú vị, chỉ để nghe xem cách ngắt dòng đang làm điều gì. Nhưng nếu kết quả dường như làm giảm tác động của bài thơ, về mặt hình ảnh hay khái niệm của nó, hãy bỏ qua việc đọc bám theo cách ngắt dòng và đọc vì ngữ pháp hoặc hình ảnh trực quan. Đọc một bài thơ bằng nhiều cách cho phép ta nhìn sâu hơn chỉ đơn giản bằng sự lặp lại.

Với các nhà thơ sử dụng những kỹ thuật rút ra từ âm nhạc-đặc biệt là jazz, như Michael S. Harper hay Yusef Komunyakaa-hoặc sử dụng những dòng dài bất thường như Walt Whitman, có thể có một nguyên tắc hướng dẫn khác: nhịp thở. Một số nhà thơ nghĩ về từ ngữ của mình như âm nhạc tuôn ra từ cái kèn; họ nghĩ về các cụm từ theo cách nghĩ của nghệ sĩ saxophone. Thơ sáng tác theo cách này có độ dài của dòng khác nhau nhưng có nhạc tính trong cách ngắt dòng và có tính tự nhiên trong cách đọc. Chúng có thể có nhịp dễ nhận biết, một khoảng thời gian tương đương giữa các dòng, hoặc, vì sự tương phản, một khuôn nhịp hoặc khoảng thời gian mở đường cho những biến thể kế tiếp.

Hãy nhớ rằng việc sử dụng những kỹ thuật này, trong bất kỳ sự kết hợp nào, cũng đẩy từ ngữ của thơ ra ngoài nghĩa đen của chúng. Nếu trong thơ ta tìm thấy nhiều hơn những gì mà riêng từ ngữ truyền tải, thì thứ gì đó lớn hơn đã có tác dụng, khiến thơ không chỉ là tổng các thành phần của nó mà còn hơn thế.

Ai là người nói?

Hoàn cảnh nào dẫn đến bài thơ?

Tình huống được đưa ra là gì?

Đối tượng của bài thơ là ai hay cái gì?

Giọng điệu của bài thơ là gì?

Hình thức, nếu có, của bài thơ?

Âm thanh có phải là một yếu tố quan trọng, tích cực của bài thơ?

Bài thơ có bắt nguồn từ một thời khắc lịch sử có thể xác định được hay không?

Bài thơ có nói từ một nền văn hóa cụ thể hay không?

Bài thơ có sử dụng tiếng địa phương hay không?

Bài thơ có sử dụng hình ảnh để đạt được một hiệu ứng đặc biệt nào không?

Loại ngôn ngữ tượng hình nào, nếu có, mà bài thơ sử dụng?

Nếu bài thơ là một câu hỏi, thì câu trả lời là gì?

Nếu bài thơ là một câu trả lời, thì câu hỏi là gì?

Nhan đề bài thơ gợi ý điều gì?

Bài thơ có sử dụng từ ngữ bất thường hoặc theo cách bất thường hay không?

Ta có thể quay trở lại những câu hỏi này khi cần, nhưng kinh nghiệm cho thấy vì mỗi bài thơ là độc nhất, những câu hỏi như vậy sẽ không đạt đến độ xa cần thiết. Trong nhiều trường hợp, biết ai là người nói có thể không mang lại bất cứ thông tin nào hữu ích. Có thể không có dịp nào xác định được truyền cảm hứng cho bài thơ. Nhưng thơ thường cho ta những manh mối về nơi để bắt đầu. Đặt câu hỏi về những đặc điểm có thể quan sát được của một bài thơ sẽ giúp ta tìm một con đường vào.

Văn bản và bối cảnh

Có người nói thơ luôn là một tác phẩm nghệ thuật độc lập và độc giả có thể hiểu đầy đủ nó mà không cần sử dụng bất cứ nguồn nào ngoài bản thân bài thơ. Người khác lại nói không văn bản nào tồn tại trong chân không. Tuy nhiên, sự thật nằm đâu đó ở giữa. Phần lớn thơ có thể diễn giải mà không cần sự trợ giúp của bối cảnh lịch sử hay kiến thức về cuộc đời tác giả. Trên thực tế, tiếp cận một bài thơ mà không có những tư tưởng định trước có thể đi kèm với kiểu thông tin này thường là cách tiếp cận tốt nhất. Tuy nhiên, những bài thơ khác, đặc biệt là những bài thơ chính trị công khai, sẽ hưởng lợi từ một số kiến thức về cuộc đời và thời đại của nhà thơ. Lượng thông tin cần thiết để hiểu rõ phụ thuộc vào ta và cuộc gặp của ta với thơ. Dĩ nhiên, có khả năng ngay cả một người có nền tảng sâu rộng về thơ cũng không nhận thức được những mối liên hệ hay những tác động nhất định trong một bài thơ. Điều này là bởi thơ được tạo nên từ những từ ngữ tích tụ những ý nghĩa mới qua thời gian.

Hãy xem xét tình huống này, một câu chuyện có thật, của một nhà thơ tìm thấy một “văn bản” ở bờ biển San Mateo ở miền Bắc California. Khi trèo qua những tảng đá sau bãi biển, gần những cánh đồng atisô phân cách bờ biển với đường cao tốc duyên hải, bà tìm thấy một vết graffiti lớn sơn trên đá, ” La Raza,” một khẩu hiệu chính trị của người Chicano mang nghĩa “đấu tranh.” Bà ngồi xuống và viết một bài thơ. Tại sao? bài thơ của bà hỏi. Tôi hiểu, bà viết, tại sao ai đó viết La Raza lên tường một tòa nhà hay trên phương tiện giao thông công cộng. Ở đó người ta sẽ thấy nó và nó sẽ cất tiếng phản đối từ chính những nền tảng của hệ thống áp bức. Nhưng tại sao lại ở đây, trong tự nhiên, trong cái đẹp, cách xa đấu trường chính trị ấy. Không để bờ biển giữ được vẻ hoang sơ hay sao? Sau này, một buổi tối trong khi đọc bài thơ đó ở Berkeley, bà nhận được câu trả lời. Một người tiến đến chỗ bà và hỏi, “Chị có muốn biết tại sao không?” “Xin anh,” bà trả lời. “Những cánh đồng ấy,” người đàn ông tiếp tục, “là nơi người Chicano gần như đã bị nô dịch, đánh đập, và buộc phải sống trong nghèo khổ trong nhiều thập niên.” Cảnh quan đã không vô tội trong cuộc đấu tranh chính trị. Văn bản đã không nằm ngoài nơi chốn.

Chấp nhận sự mơ hồ

Đây là một vấn đề hóc búa: nhiệm vụ là nắm bắt, là kết nối, là hiểu. Nhưng nhiệm vụ như vậy ở một mức độ là bất khả, và hầu hết mọi người đều muốn sự rõ ràng. Vào cuối lớp, vào cuối ngày, chúng ta muốn sự mặc khải, một hình ảnh đường chân trời qua màn sương mù tan. Về mặt mỹ học, điều này là dễ hiểu. Một sự huyền diệu, một sự thỏa mãn, một vài tiếng “Ahhh!” là một trong những phần thưởng của việc đọc, và đặc biệt là đọc thơ. Nhưng bài thơ nào bộc lộ bản thân hoàn toàn qua một hoặc hai lần đọc sẽ, theo thời gian, có vẻ không bằng một bài thơ liên tục bộc lộ những hốc kín tinh tế và những ý nghĩa chưa được nhận ra trước đó.

Đây là một phép so sánh hữu ích. Bạn đời, người chồng, người vợ-đó là những người mà chúng ta hy vọng luôn đổi mới tình yêu của chúng ta với họ. Bất chấp thói quen, tiếng ồn của sự quen thuộc, việc chuẩn bị đồ ăn và rửa bát đĩa thường nhật, những cuộc trò chuyện chúng ta từng có, chúng ta vẫn hy vọng tìm thấy một cảm giác khám phá, một cảm giác bất ngờ. Điều này cũng đúng với thơ. Những bài thơ huyền diệu và tuyệt vời nhất vẫn liên tục đổi mới bản thân, nói như vậy có nghĩa là chúng vẫn luôn bí ẩn.

Chúng ta thường xuyên chống lại sự mơ hồ. Có lẽ cuộc sống của chúng ta thay đổi chóng vánh đến nỗi chúng ta khao khát sự ổn định ở đâu đó, và bởi phần lớn việc đọc là để lấy hướng dẫn hay thông tin, chúng ta muốn nó không có gam màu xám. Chúng ta muốn nó dễ đoán và dễ tiêu hóa. Và thơ khó đến vậy là nỗi thống khổ cuối cùng.

Một số nhà phê bình văn học cũng sẽ liên kết điều này với sức mạnh của sự thấy, với quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Chúng ta mong thơ là đối tượng để có thể sở hữu nó thông qua “sự nhìn” của chúng ta vào những hoạt động bên trong nó. Khi nó không cho phép chúng ta “đối tượng hóa” nó, chúng ta cảm thấy bất lực.

Thống khổ, bất lực-đó là những mục đích đáng muốn? Ồ không. Vấn đề là phản ứng của chúng ta, cách chúng ta định hình tư tưởng của mình thông qua từ ngữ. Chúng ta phải từ bỏ thái độ vật chất của mình, thứ khiến chúng ta muốn sở hữu thơ. Có thể chúng ta đã mua sách nhưng chúng ta không sở hữu thơ. Chúng ta phải trau dồi một tư duy mới, một thói quen mới, là thưởng thức sự bất phân định.

Chấp nhận sự mơ hồ là nhiệm vụ khó hơn nhiều với người này so với người khác. Không gì đáng sợ với một số người như ý tưởng (ngay cả ý tưởng) về ngẫu hứng như một công cụ viết hay phân tích. Một số diễn viên ghét việc không có kịch bản; điều đó cũng đúng với một số nhạc sĩ. Đề nghị một số nhạc công xuất sắc chơi ngẫu hứng rồi họ sẽ bắt đầu đổ mồ hôi. Dĩ nhiên, các diễn viên và nhạc sĩ sẽ nói rằng có một điều bí ẩn trong những gì họ làm với một kịch bản hay một bản ghi, và sẽ là vô nghĩa nếu không đồng ý. Vấn đề, suy cho cùng, là văn bản thì bí ẩn. Diễn cùng một nhân vật đêm này qua đêm khác, diễn viên sẽ phát hiện ra điều gì đó trong những dòng kịch bản, sự đồng cảm nào đó với nhân vật mà họ chưa từng cảm thấy trước đây. Chơi hoặc nghe một bản nhạc đến hàng trăm lần-nếu là một bản nhạc vĩ đại-sẽ mang lại diễn giải và khám phá mới. Với thơ lớn cũng vậy. ♦

Edward Hirsch, ” How to Read a Poem,” chúng tôi 27 Nov, 2007 (Accessed 10 Oct, 2016).

Mối Quan Hệ Giữa Bếp Lửa Đời Và Bếp…

Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà, về những hồi ức đẹp đẽ của tuổi thơ, về tình bà cháu – Bếp lửa đời: + Là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam + Gợi sức sống, tình cảm gia đình và sự bình yên, no ấm . – Bếp lửa trong thơ Bằng Việt: + Hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà khiến cho người đọc liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ, thiêng liêng. + Nỗi nhớ về bếp lửa được gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác, cảm giác, khứu giác, xúc giác…Mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi. + Bếp lửa gắn với bà: hình ảnh bếp lửa ấp iu…chính là sự hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu…Nếu bếp lửa củi rơm gắn với cảm nhận về mùi khói, với dư vị sống mũi còn cay, thì bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như người chăm sóc vừa như một người bạn lớn….(dẫn chứng) + Những kí ức tuổi thơ ùa về trong tâm tưởng cháu… Nhớ về bếp lửa, nhắc về bếp lửa là nhắc về bà với những công việc xoay quanh bếp lửa, và tình cảm của một người bà đôn hậu, tần tảo.…(dẫn chứng) + Qua dòng hồi tưởng hình ảnh bếp lửa không còn là bếp lửa bình thường mà là một hình ảnh biểu tượng cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí cháu với sự hòa quyện tuyệt vời giữa cái ấm áp của bếp lửa đời và bếp lửa lòng người. ( dẫn chứng) + Từ bếp lửa, tình cảm của bà đã được hình tượng hóa trở thành ngọn lửa, là một hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn….Bếp lửa trong kí ức tuổi thơ chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu. + Trong tình cảm của bà có tình yêu quê hương, đất nước của những người xa quê, nhớ bà là nhớ quê hương đất nước.

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nc.

Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.

Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.

Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm Một bếp lửa ấp iu nồng đượm Chàu thương bà biết mấy nắng mưa” Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy! Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ. Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, tậht hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc (tui chưa bị ám:33 . Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc. “Bếp lủa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.

Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người. Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ông một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.

Có Một Mộc Châu Như Thế…

Trong tim của một người yêu xê dịch, luôn có một Mộc Châu rất đẹp, rất dịu dàng, rất thơ, rất biết cách quyến rũ tâm hồn bởi vẻ nhẹ nhàng mà thanh khiết…

Mận trắng cùng hoa cải tạo nên cảnh sắc mê hoặc lòng người

Với những người yêu du lịch, nhắc đến Mộc Châu là nhắc đến những đồi chè trái tim, thác Dải Yếm, rừng thông Bản Áng, Động Sơn Mộc Hương… Trong tôi, Mộc Châu là đồi chè bạt ngàn mướt xanh, là trảng cỏ mơn mởn xuân thì, là những đứa trẻ mắt to tròn thơ ngây ríu rít, là một Mộc Châu mộc mạc yên bình trong những cành đào ngày Tết và cả những cung đường mùa Xuân trắng màu hoa mận… Với những “phượt thủ”, quốc lộ 6 là một cung đường mơ ước. Những chiếc xe máy rong ruổi lang thang, nổi bật trên nền trời xanh trong và con đường xanh cây cỏ là màu áo đỏ yêu thương, như trái tim nhiệt huyết đắm chìm vào khung cảnh nên thơ của núi rừng Tây Bắc.

Sắc trắng tinh khôi của hoa mận

Tôi còn nhớ lần đầu tiên ước hẹn cùng Mộc Châu là vào một ngày giáp Tết, trời không chiều lòng người, sương mù giăng kín, cái lạnh cóng với mưa phùn lất phất ngấm vào da thịt… Lúc đó, tôi và những bạn đồng hành chưa có kinh nghiệm, hành trang mang theo là sự sôi nổi của tuổi trẻ, một ba lô đầy thức ăn, và lớp áo ấm không xua hết được giá rét. Khoảnh khắc xe máy xuyên qua lớp mù đặc đoạn đèo Đá Trắng, xe này chỉ nhìn thấy đuôi xe kia, chúng tôi dường như đã rất thất vọng… nhưng sự ương bướng của tuổi trẻ đã thôi thúc chúng tôi đi đến cuối cung đường. Và cho đến khi những đường cong tuyệt đẹp của Mộc Châu hiện ra trước mắt… hai bên đường là những thân mận im lìm, trầm lắng, khẳng khiu… và hoa mận – Ôi là hoa mận trắng xóa khung trời! Đến tận bây giờ, khoảnh khắc rừng mận trắng xóa in trong lớp sương mờ huyền ảo vẫn đọng lại nguyên sơ trong tôi, vì đó cũng là lúc tôi nói tiếng yêu đầu với Mộc Châu, và bây giờ tình yêu vẫn tiếp diễn, như thế…

Những đứa trẻ hồn nhiên trên mảnh đất Mộc Châu

Tôi yêu những đứa trẻ ở đây, yêu cái cách chúng hồn nhiên cười đùa trên những chiếc xích đu tự tạo bên hiên nhà, yêu cách những người chị trẻ con khệ nệ bế ẵm nựng nịu em mình, yêu cách chúng bẽn lẽn đến bên chúng tôi, ngại ngùng giơ đôi bàn tay bé nhỏ xin quà bánh, yêu đôi mắt mở to, yêu bàn tay bé xíu vẫy vẫy… Khi nhìn vào chúng, chỉ thấy như quên hết những phức tạp, bon chen của cuộc sống đời thường. Mộc Châu đẹp bình dị trong mái nhà ở những làng bản xa, mà phải rất khó khăn chúng tôi mới có thể đi xe trên những con đường đất gập ghềnh để đến được, nhưng những điều nhận được khiến cho chúng tôi sẵn sàng đánh đổi mệt nhọc. Đó là những nếp nhà dựa lưng vào đá núi, là những gốc đào mận sum suê hoa lá đứng yên như canh giữ cho sự yên bình ấy, là khói bếp mang hương gỗ ngai ngái, những bộ trang phục sặc sỡ trên dây phơi, lợn gà cần mẫn sục sạo quanh sân nhà…bức tranh ấy sẽ không chỉ nhẹ nhàng đi qua tâm trí, mà mỗi lần nhớ về, đều cảm nhận được từ rung động trái tim. Mộc Châu như một cô gái mang nhiều nét hấp dẫn, và một trong những điểm đặc biệt nữ tính của cô ấy là những chiếc áo hoa. Không chỉ là hoa đào ấm trời Xuân, không chỉ là hoa mận trắng bảng lảng như mây trong sương mù, mà còn là những cánh đồng hoa cải, màu trắng tinh khiết của hoa, màu xanh mộc mạc của lá, trải dài không thấy điểm cuối, như nối liên với trời cao không gợn. Những biển hoa cải trắng này như đã trở thành “thương hiệu”, thành dấu ấn riêng của Mộc Châu, như là tam giác mạch son sắt của Hà Giang yêu dấu!

Thác Dải Yếm 

Cô gái Mộc Châu được mẹ thiên nhiên ưu ái ban cho “Dải Yếm” vô cùng mềm mại. Thác Dải Yếm (thác Nàng, thác Bản Vặt) cho chúng ta cảm nhận được sự cuốn hút qua những thác nước đổ xuống khi khoan thai, lúc mạnh dạn, như đang kể câu chuyện tự tình của nước non. Thác Dải Yếm đẹp nhất vào tháng 4 đến tháng 9 hàng năm, bởi lúc này lượng nước đổ về nhiều, toàn bộ thác là một màn nước trắng xóa, vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Nhìn từ xa, thác như một “dải yếm” hững hờ nối giữa trời và đất. Thả bộ lững thững trong rừng thông bản Áng, hòa mình vào khí trời thanh mát, trong lành, nhìn mặt trời xuyên qua những vòm cây, nghe tiếng chim hót râm ran… cảnh sắc bên hồ nước mênh mang như một bài tình ca êm ái, rót vào lòng ngòn ngọt, xua đi hết tạp niệm, vẩn vơ. Tôi chỉ muốn được làm một cô gái nhỏ, tinh nghịch ngắt một nhành hoa dại cài lên tóc, tung tăng hát vang một bài tình ca rồi nằm xuống bãi cỏ, ngắm nhìn những cây thông thẳng tắp trên cao, mãi mãi như thế…

Hồ bản Áng 

Tôi yêu Mộc Châu! Và cho đến cả sau này, khi già đi, đi nhiều hơn, đến nhiều nơi, chắc chắn tôi vẫn dành cho Mộc Châu một góc trong trái tim, vì đó là nơi đã đánh thức rất nhiều đam mê khám phá trong tôi, đã vỗ về và cho tôi rất nhiều tình cảm và kỉ niệm đẹp. Có một Mộc Châu như thế…

Tôi yêu Mộc Châu! Và cho đến cả sau này, khi già đi, đi nhiều hơn, đến nhiều nơi, chắc chắn tôi vẫn dành cho Mộc Châu một góc trong trái tim, vì đó là nơi đã đánh thức rất nhiều đam mê khám phá trong tôi, đã vỗ về và cho tôi rất nhiều tình cảm và kỉ niệm đẹp. Có một Mộc Châu như thế…

Trang Thanh

Rượu Nữ Nhi Hồng Được Làm Như Thế Nào

Khi xem phim Trung quốc cổ đại chúng ta thường được nghe tới loại rượu nữ nhi hồng, vậy loại rượu như thế nào mà nổi tiếng đến vậy. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về loại rượu vang danh Trung Quốc đến hiện nay vẫn được nhiều người nhắc tới.

Công thức làm rượu nữ nhi hồng

Trong tiểu thuyết và phim võ hiệp Trung Quốc, ta thường lầm tưởng rằng Nữ Nhi Hồng là một loại rượu đại trà xuất hiện khắp nơi, từ các thanh lâu cho đến quán rượu ven đường.

Nhưng sự thật, Nữ Nhi Hồng đất Giang Nam là một trong những loại rượu cổ truyền hàng đầu Trung Quốc, còn có cái tên khác đầy quyền quý là “Hoàng tửu Triệu Hưng” hoặc là “Rượu trinh nữ”, với công thức pha chế cực kỳ phức tạp.

Rượu Hoàng Tửu Triệu Hưng có lịch sử từ rất lâu đời, là một trong những loại rượu ngon nổi tiếng. Nguyên liệu để chế biến loại rượu này chính là gạo nếp, và nước suối có vị ngọt tinh khiết mà tạo thành.

Khi chế biến xong có sắc màu hơi vàng, hương thơm nồng. Muốn ủ được loại Hoàng tửu ngon thì cần phải ủ trong một một cái hũ làm từ gốm, sau đó dùng bùn trát lên đậy chặt hũ lại.

Các hũ rượu này sẽ được chôn dưới đất khoảng từ 3 tới 5 năm, nhiều nhất là khoảng từ 10 tới 20 năm, cho nên loại rượu này còn được gọi bằng một cái tên khác là “lão tửu”. Hoàng tửu có một sô loại rượu ngon nữa như “rượu cơm, hoa điều tửu, trang nguyên hồng tửu, hay tuyết hương tửu”…

Người ta gọi là rượu cơm là bởi vì trong qua trình lên men, người chế biến rượu cho thêm một số lượng gạo nếp tương đối nhiều nên mới có cái tên như vậy. Nó là loại rượu ngon nhất của Hoàng tửu Triệu Hưng.

Thực tế, “nữ nhi hồng” là một loại rượu nếp, được sản xuất chủ yếu ở vùng Thiệu Hưng (Chiết Giang, Trung Quốc). Vào thời Tống, Thiệu Hưng là vùng sản xuất rượu nức tiếng. Những gia đình ở đất rượu này, nếu sinh con gái, đợi đến khi con đầy tháng sẽ chọn vài vò rượu loại thượng hạng, dán kín miệng, chôn xuống đất hoặc cất trong hầm. Rượu này đợi khi con gái xuất giá sẽ lấy ra thết đãi bạn bè người thân, do đó mà có tên là “nữ nhi hồng”!

Giới thiệu rượu Hoàng Tửu

Hoàng Tửu là rượu được làm ra từ Gạo ủ lên men sau đó ngâm với rượu nếp, được chứa trong chum sành và hạ thổ tối thiểu 3 tháng 10 ngày (Bách Nhật).

Rượu Hoàng Tửu thường chứa 25-30% nồng độ cồn và có vị ngọt, hương thơm, rất dễ uống và có hậu vị ngọt thơm trong miệng.

Rượu Hoàng Tửu khi ngâm ủ đủ ngày tháng thì thường có màu vàng hổ phách. Cách ngâm ủ rượu Hoàng Tửu tương đối giống với Rượu Nếp cái hoa vàng song để tạo nên màu vàng hổ phách lại là bí quyết trong khâu chọn gạo nếp.

Trong thực thế có nhiều loại rượu được gọi chung là Hoàng Tửu và khác nhau từ màu sắc vàng trong cho đến màu đục, nâu vàng, hay nâu đỏ.

Rượu Hoàng Tửu được uống trực tiếp hoặc làm lạnh hay đun nóng, có thể sử dụng trong việc nấu nướng để tăng thêm độ ngon cho món ăn.

Rượu Hoàng Tửu thường được sử dụng thích hợp vào các dịp đại lễ như sinh con, hứa hôn, cưới hỏi…

Truyền thuyết về cách làm rượu nữ nhi hồng trong dân gian

Nói về “nữ nhi hồng”, có lẽ là đệ nhất danh tửu tốn nhiều giấy mực nhất xưa nay. Từ tên gọi đến hương vị của nó đều khiến người ta không thể cầm lòng cho đặng. Nổi tiếng như vậy nhưng tính đến nay, công thức pha chế “nữ nhi hồng” vẫn là một câu chuyện không đầu không cuối, có lẽ là loại rượu nhiều “dị bản” nhất xưa nay.

Người trong giang hồ đồ rằng, phương thức làm ra rượu “nữ nhi hồng” vô cùng phức tạp, không đủ kiên nhẫn không thể làm, không đủ bản lĩnh không thể uống.

Theo một số nguồn tin, để có thể làm được “nữ nhi hồng”, người ta phải tuyển chọn những thiếu nữ xinh đẹp, vừa bước sang tuổi 13, vẫn còn trinh trắng, chưa nhuốm bụi trần để tham gia công việc đòi hỏi rất nhiều sự tỉ mỉ này.

Các cô gái sẽ chậm rãi nhai nho, nhả nước nho ra rồi hạ thổ, chưng cất mấy chục năm mới cho ra thứ rượu hảo hạng trứ làm điên đảo bao anh hùng hào kiệt trong giang hồ. Bởi vậy mà mỹ tửu “nữ nhi hồng” cực kỳ hiếm chứ không nhan nhản trên thị trường và phim ảnh như nhiều người vẫn thấy.

Theo đó, “nữ nhi hồng” đích thực được làm từ lúa mạch chứ không phải nho. Lúa mạch phải chọn loại thượng hạng, chưng cất với nước lấy từ thượng nguồn suối đá.

Điều đặc biệt được cho là yếu tố tạo nên sự khác biệt và sức hấp dẫn muôn đời của “nữ nhi hồng” danh tửu khá hoang đường, ít người dám tin. Đó là phải lựa chọn lấy một cô trinh nữ vừa đến tuổi 13, đợi cho đến ngày kinh nguyệt đầu tiên, cho cô gái ngồi trong chum rượu, lấy nước đó pha với rượu. Sau đó, ủ rượu 13 ngày cho lên men rồi hạ thổ cho đến khi cô gái lấy chồng mới đào lên đãi khách. Loại rượu này có mùi đặc trưng và màu hồng nhạt nên được gọi là “nữ nhi hồng”.