Top 8 # Bài Thơ Từ Ấy Nội Dung Và Nghệ Thuật Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ Vội Vàng.

HƯỚNG DẪN

I. TÁC GIẢ XUÂN DIỆU

1. Xuân Diệu (1916 – 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu, quê nội ở Hà Tĩnh, quê ngoại ở Bình Định. Theo lời Xuân Diệu, cả xứ Nghệ quê cha và xứ dừa quê mẹ đều có ảnh hưởng đến cuộc sống và sự nghiệp văn chương của ông. Xuân Diệu đã thừa hưởng đức tính cần cù, kiên nhẫn trong lao động của người xứ Nghệ và hồn thơ của ông được bồi đắp nên từ thiên nhiên thơ mộng vạn Gò Bồi. Sau khi đỗ tú tài, Xuân Diệu đi dạy học tư, làm viên chức ở Mĩ Tho rồi ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Ông hăng hái tham gia các hoạt động xã hội với tư cách một nhà văn chuyên nghiệp: đại biểu Quốc hội khoá I, Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá I, II, III, Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hoà Dân chủ Đức. Năm 1996, Xuân Diệu được nhà nước tặng Giải thưởng HỒ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Xuân Diệu là một nhà thơ lớn, một nhà văn hoá lớn. Ngay từ khi mới bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu đã được nhìn nhận là nhà thơ “mới nhất trong những nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông là nhà thơ của mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu với một hồn thơ “khát khao giao cảm với đời” (Nguyễn Đăng Mạnh). Xuân Diệu luôn duy trì một nguồn cảm xúc tươi mới, một cặp mắt “xanh non” để nhìn vạn vật nên dòng thơ của ông cho đến cuối đời vẫn không hề vơi cạn. Sự đam mê sáng tạo của ông như một cuộc chạy đua với thời gian, tìm đến sự bất tử trong văn chương.

3. Tác phẩm chính của Xuân Diệu gồm các tập thơ: Thơ tha (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960), Mủi Cà Mua – cầm tay (1962), Hai đạt sóng (1967), Tôi giàu đôi mắt (1970), Thanh cù (1982); các tập văn xuôi: Phấn thông vàng (1939), Trường ca (1945); các tập tiểu luận, phê bình, nghiên cứu: Những bước đường tư tưởng của tôi (1958), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (hai tập – 1981, 1982), Công việc làm thơ (1984),…

II. BÀI THƠ VỘI VÀNG

Vội vàng được in lần đầu trong tập Thơ thơ (NXB Đời nay, Hà Nội, 1938). Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu trước Cách mạng, cho thấy nhân sinh quan mới mẻ cùng những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ.

NỘI DUNG

1. Đoạn 1 (13 câu đầu): Tình yêu tha thiết đôi với cuộc sống.

Thi nhân là người nhạy cảm hơn ai hết về sự phai tàn của cái đẹp trước thời gian, họ muôn níu giữ cả những gì mong manh nhất của hương sắc cuộc đời (muôn “bắt nắng đi” cho “màu đừng nhạt”, muôn “buộc gió lại” cho “hương đừng bay”). Những ước muốn “không tưởng” ấy được bộc lộ một cách chân thành, mãnh liệt bởi nó bắt nguồn từ tình yêu tha thiết đối với cuộc sống. Khác với nhiều thi nhân lãng mạn thời ấy, Xuân Diệu không cần phải tìm cách thoát li hiện thực, nhà thơ tìm thấy cho mình cả một “thiên đường” ngay trên mặt đất này:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;…

Đấy là một cõi trần dạt dào nhựa sống giữa mùa xuân. Tâm hồn tươi trẻ của nhà thơ bắt nhịp ngay với những gì đang nảy lộc đâm chồi, đang đơm hoa kết trái. Sự ngất ngây, say đắm của hồn thơ biểu hiện trong nhịp thơ tuôn chảy ào ạt (này đây… này đây…), những hình ảnh mang sắc màu rực rỡ (ong bướm…tuần tháng mật; hoa… đồng nội xanh ri; cành tơ phơ phất), nhưng âm thanh réo rắt (yến anh… khúc tình si),… Cảm nhận được sự sống xuân thì đang ở dạng phồn thực khiến cho các giác quan bất chợt thăng hoa, thi nhân đã có một so sánh đặc biệt tình tứ: Tháng giêng ngon như một cặp môi gần. Cái đẹp của con người đã trở thành chuẩn mực cho cái đẹp của tự nhiên đó là một phát hiện trong quan niệm mĩ học của Xuân Diệu. Nhưng ngay trong lúc ở đỉnh cao của sự đắm say giao hoà cùng vạn vật, cảm giác tiếc nuối thời gian vẫn song hành tồn tại (Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa -Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân).

2. Đoạn 2 (từ câu 14 đến câu 29): Nỗi băn khoăn, tiếc nuối về sự một đi không trở lại của tuổi xuân trước sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian.

Cảm nhận về thời gian ở mỗi người, mỗi thời không giông nhau. Người xưa quan niệm thời gian là một vòng tuần hoàn, con người còn có kiếp luân hồi nên có thể tồn tại vĩnh hằng cùng trời đất. Thời hiện đại, ý thức về sự hiện hữu của “cái tôi, cá nhân kéo theo sự thay đổi quan niệm về thời gian”. Ở các nhà thơ mới, đặc biệt là Xuân Diệu, cảm thức về thời gian vô cùng nhạy bén. Đối với thi nhân, mỗi giây phút cuộc đời là vô cùng quý giá, một đi không trở lại, nên Xuân Diệu lúc nào cũng như chạy đua với thời gian, “giục giã” mình và mọi người “Mau lên chứ, vội vàng lên với chứ!”. Nhà thơ cảm thấy thời gian đang chảy trôi vùn vụt trong mùa xuân của đất trời:

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.

Và nhận thấy con người hoàn toàn chịu sự chi phôi của dòng chảy đó:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Cái đẹp của thiên nhiên là mùa xuân, cái đẹp của con người là tuổi trẻ. Mùa xuân của đất trời còn có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân của đời người thì chẳng bao giờ “thắm lại”! Đó là một nghịch lý nhưng lại là quy luật tất yếu. Cảm nhận sâu sắc và có phần đau đớn về sự một đi không trở lại của tuổi xuân khiến thi nhân nhìn đâu cũng thây “mầm li biệt”:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sống núi vẫn than thầm tiễn biệt…

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?

Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

3. Đoạn 3 (từ câu 30 đến hết): Lời giục giã cuồng nhiệt của nhà thơ.

Chính vì bất lực trước quy luật khắc nghiệt của thời gian nên nhà thơ mới vội vàng giục giã mọi người tận hưởng tất cả những gì đẹp đẽ nhất trên thế gian này (sự sống… mơn mởn; mây đưa… gió lượn cánh bướm… tình yêu; mùi thơm; ánh sáng,…). Tình cảm đắm say, tha thiết đến cuồng nhiệt đối với sự sống một lần nữa lại trào lên ở cuối bài thơ bằng những điệp từ (ta muốn… ta muốn) bằng những động, tính từ mạnh mẽ (riết, say, thâu, chếnh choáng, đã đầy, no nê,…) và lên đến cao trào: – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

Đó là cách bộc lộ cảm xúc vô cùng mãnh liệt, độc đáo và mới mẻ chỉ có ở Xuân Diệu.

NGHỆ THUẬT

1. Sự kết hợp hài hoà giữa mạch cảm xúc trên bề mặt và mạch triết luận ở bề sâu. Mỗi cảm xúc ào ạt, mê say, đắm đuối tưởng như bột phát qua những hình ảnh tràn trề, rực rỡ thực chất đều bị chi phối bởi mạch luận lí ẩn bên trong. Có thể dõi theo hai mạch song hành đó qua trình tự các khổ thơ. Muốn tắt nắng, buộc gió, muôn giữ lại hương sắc cuộc đời (khổ 1) bởi cuộc sống trần gian rạo rực xuân thì, đẹp đến ngất ngây (khổ 2). Nhưng cái đẹp nào có tồn tại mãi. Mùa xuân của đất trời có thể tuần hoàn nhưng tuổi xuân của đời người thì một đi không trở lại, trong cái đang phơi phới đã có mầm tàn lụi, vị chia li (khổ 3). Vì thế con người phải vội vàng lên, ôm trọn lấy cuộc đời, thâu nhận hết thảy sắc hương của sự sống (khổ 4). Nhịp thơ ở đây cũng biến đổi uyển chuyển, linh hoạt theo dòng cảm xúc. Khi diễn tả sự đắm say, sôi nổi thì nhịp điệu trở nôn dồn dập, khi cần triết luận thì nhịp thơ dãn ra, lắng lại, những đoạn cao trào nhịp điệu lại được đẩy lên mạnh mẽ, sôi nổi.

2. Những sáng tạo độc đáo về hình ảnh và ngôn từ. Hình ảnh thơ táo bạo, mãnh liệt (Tháng giêng ngon như một cặp môi gần; Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!…). Ngôn ngữ thơ phong phú và mới lạ: cách đảo ngữ rất tân kì (Của ong bướm này đây tuần tháng mật – Này đây hoa,…), phép điệp và phép đối được phát huy triệt để trong cấu trúc câu thơ làm tăng sức biểu hiện (Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,…), các giác quan được huy động tôl đa dẫn đến những cảm nhận độc đáo (Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi – Khắp sống núi vẫn than thầm tiễn biệt,…).

3. Giọng thơ đắm say, sôi nổi. Đó là một nét riêng của giọng thơ Xuân Diệu được thể hiện rất rõ trong bài thơ này. Giọng thơ đã truyền được trọn vẹn cái đắm say trong tình cảm của nhà thơ và như vậy, bài thơ đã tìm được con đường ngắn nhất đến với trái tim người đọc.

Đặc Điểm Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ “Vội Vàng”

” Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.

Đặc điểm về nội dung

“Vội vàng” chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của “cái tôi” cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “biện luận” rất riêng của tác giả.

Phát hiện mới của Xuân Diệu: Cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất

Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi

Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị, ngông cuồng bề ngoài, nhưng thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất đẹp: chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc đời.

Nhưng lí do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn dòng chảy của thời gian?

Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lí do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi mọi người trên hành trình tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Niết bàn, cõi Tây phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Na, đều đề cao tâm lí hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chằng phải là cái bể khổ đày đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử… những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại là cả thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đâu khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhan vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời hằng ngày loạt đại từ chỉ trở này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyễn rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ đẹp ngọt ngào, trẻ trung và có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi yêu đương, ngọt ngào: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi…..

Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn: tháng giêng, mùa xuân sao ngon như một cặp môi gần!

Nỗi ám ảnh của nhà thơ Xuân Diệu về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân

Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người hiện đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của lo âu, bàng hoàng, thoảng thốt.

Đấy là lí do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi: từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp nghĩa là (3 lần/3 dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:

Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bộng dứt tiếng reo thi.

Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thơi gian không còn là một đại lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó mang hương vị đau xót của chia phôi, người ta phát hiện nó tựa như một vết thương rớm máu trong tâm hồn:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Niềm xót tiếc cứ thế tuôn chảy miên man trong hàng loạt câu thơ và khắc nghiệt với bất công đã trở thành một quan hệ định mệnh giữa tự nhiên với con người. Nỗi cay đắng trước sự thật đó được triển khai trong những hình ảnh và ý niệm sắp xếp theo tương quan đối lập giữa: lòng người rộng mà lượng trời chật; Xuân của thiên nhiên thì tuần hoàn mà tuổi trẻ của con người thì chẳng hai lần thắm lại. Cõi vô thuỷ vô chung là vũ trụ vẫn còn mãi vậy mà con người, sinh thể sống đầy xúc cảm và khao khát lại hoá thành hư vô. Điều “bất công” này thôi thúc “cái tôi” cá nhân đi tìm sức mạnh hoá giải.

Cách hoá giải mâu thuẫn, nghịch lí của Xuân Diệu

Từ nỗi ám ảnh về số phận mong manh chóng tàn lụi của tuổi xuân, tác giả đề ra một giải pháp táo bạo. Con người hiện đại không sống bằng số lượng thời gian mà phải sống bằng chất lượng cuộc sống – sống tận hưởng phần đời có giá trị và có ý nghĩa nhất bằng tốc độ thật lớn và một cường độ thật lớn. Đoan thơ cuối trong bài thơ gây ấn tượng đặc biệt trước hết bởi nó tựa như những lời giục giã chính mình lại như lời kêu gọi tha thiết đối với thế nhân được diễn đạt bằng một nhịp thơ gấp gáp bộc lộ vẻ đẹp của một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, cuồng nhiệt yêu đời và yêu sống.

Rõ ràng, lẽ sống Vội vàng bộc lộ một khát vọng chính đáng của con người. Như đã nói đây không phải là sự tuyên truyền cho triết lí sống gấp mà là ý thức sâu sắc về cuộc sống của con người khi anh ta đang ở lứa tuổi trẻ trung, sung sức nhất. Xuân Diệu từng tuyên ngôn: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối – Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm” chính là tuyên ngôn cho chặng đường đẹp nhất này. Vội vàng, vì thế là lẽ sống đáng trân trọng mang nết đẹp của một lối sống tiến bộ, hiện đại. Đây chưa phải là lẽ sống cao đẹp nhất lúc bấy giờ nhưng dù sao, trong một thời đại mà lối sống khổ hạnh, “ép xác”, “diệt dục” là không còn phù hợp nữa, là lời cổ động cho một lối sống tích cực, sống trong ý thức phát huy hết giá trị của tuổi trẻ và cũng là của “cái tôi”.

Tuy nhiên, lối sống Vội vàng đang còn dừng ở sự khẳng định mọt chiều. Một lẽ sống đẹp phải toàn diện và hài hoà: không chỉ tích cực tận hưởng mà còn phải tích cực tận hiến.

Đặc điểm nghệ thuật

Vội vàng có nét độc đáo trong cấu tứ. Bài thơ có sự kết hợp hài hoà hai yếu tố: trữ tình và chính luận. Trong đó, chính luận đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung động mãnh liệt bên cạnh những ám ảnh kinh hoàng khi phát hiện sự mong manh của cái đẹp, của tình yêu và tuổi trẻ trước sự huỷ hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận, lí giải về lẽ sống Vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi đến các độc giả được trình bày theo lối quy nạp từ nghịch lí, mâu thuẫn đến giải pháp.

Ví dụ trong đoạn thơ cuối, tác giả cũng đã mạnh dạn và táo bạo trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp như: ôm (Ta muốn ôm), riết (Ta muốn riết), say (Ta muốn say), thâu (Ta muốn thâu)… Và đỉnh cao của sự đam mê cuồng nhiệt là hành động cắn vào mùa xuân của cuộc đời, thể hiện một xúc cảm mãnh liệt và cháy bỏng. Không dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: chếch choáng, đã đầy, no nê.. diễn tả niềm hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.

Đặc Điểm Nội Dung Và Nghệ Thuật Của Bài Thơ “Vội Vàng”

Nỗi ám ảnh của nhà thơ Xuân Diệu về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân

“Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng. Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt, nhưng đằng sau đó là cả một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống.

Đặc điểm về nội dung

“Vội vàng” chỉ là một cách nói. Trong cốt lõi, đây là một quan niệm sống mới mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ giá trị của “cái tôi” cá nhân trong thời hiện đại. Quan niệm sống nói trên được diễn giải qua một hệ thống cảm xúc và suy nghĩ mang màu sắc “biện luận” rất riêng của tác giả.

Phát hiện mới của Xuân Diệu: Cuộc đời như một thiên đường trên mặt đất

Bước vào bài thơ, độc giả ngạc nhiên trước những lời tuyên bố lạ lùng của thi sĩ:

Tôi muốn tắt nắng đi Cho màu đừng nhạt mất; Tôi muốn buộc gió lại Cho hương đừng bay đi

Những lời tuyên bố đó chỉ có vẻ kì dị, ngông cuồng bề ngoài, nhưng thực chất bên trong chứa đựng một khát vọng rất đẹp: chặn đứng bước đi của thời gian để có thể vĩnh viễn hoá vẻ đẹp của cuộc đời.

Nhưng lí do nào khiến nhà thơ nảy sinh niềm khao khát đoạt quyền tạo hoá để chặn dòng chảy của thời gian?

Trong quan niệm của người xưa, đời là chốn bụi trần, cuộc đời là bể khổ. Đấy là lí do vì sao lánh đời nhiều khi đã trở thành một cách sống mà cả tôn giáo cũng như văn chương đều chủ trương vẫy gọi mọi người trên hành trình tìm sự an lạc tâm hồn. Cũng chẳng phải ngẫu nhiên, đạo Phật tô đậm vẻ đẹp của cõi Niết bàn, cõi Tây phương cực lạc; văn học cổ Trung Quốc cũng như văn học trung đại Việt Na, đều đề cao tâm lí hoài cổ, phục cổ, khuyến khích xu hướng tìm về những giá trị trong quá khứ vàng son một đi không trở lại như đi tìm một thiên đường đã mất. Xuân diệu thuộc thế hệ những người trẻ tuổi ham sống và sống sôi nổi, họ không coi lánh đời là một xử thế mang ý nghĩa tích cực mà ngược lại, họ không ngần ngại lao vào đời. Và thật ngạc nhiên, nhờ tuổi trẻ, họ phát hiện ra cuộc đời thực chất không phải là một cõi mông lung, mờ mờ nhân ảnh, cũng chằng phải là cái bể khổ đày đoạ con người bằng sinh, lão, bệnh, tử… những định mệnh đã hàng ngàn năm ám ảnh con người mà trái lại là cả thế giới tinh khôi, quyến rũ. Tất cả đều hiện hữu, tất cả đều gần gũi, đầy ắp, ngay trong đời thực và trong tầm tay với:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đâu khúc tình si; Và này đây ánh sáng chớp hàng mi, Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa; Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Trong cái nhìn mới mẻ, say sưa thi nhan vồn vã liệt kê bao vẻ đẹp của cuộc đời hằng ngày loạt đại từ chỉ trở này đây làm hiện lên cả một thế giới thật sống động. Hơn thế, cõi sống đầy quyễn rũ ấy như đang vẫy gọi, chào mời bằng vẻ đẹp ngọt ngào, trẻ trung và có ý để dành cho những ai đang ở lứa tuổi yêu đương, ngọt ngào: đây là tuần tháng mật để dành cho ong bướm, đây là hoa của đồng nội (đang) xanh rì, đây là lá của cành tơ phơ phất và khúc tình si kia là của những lứa đôi…..

Với đôi mắt xanh non của người trẻ tuổi, qua cái nhìn bằng ánh sáng chớp hàng mi, thi nhân còn phát hiện ra điều tuyệt vời hơn: tháng giêng, mùa xuân sao ngon như một cặp môi gần!

Nỗi ám ảnh của nhà thơ Xuân Diệu về số phận mong manh của những giá trị đời sống và sự tồn tại ngắn ngủi của tuổi xuân

Tuy nhiên, trong ý thức mới của con người hiện đại về thời gian, khi khám phá ra cái đẹp đích thực kia của đời cũng là lúc người ta hiểu rằng điều tuyệt diệu này có số phận thật ngắn ngủi, mong manh và sẽ nhanh chóng tàn phai vì theo vòng quay của thời gian có cái gì trên đời là vĩnh viễn? Niềm ám ảnh đó khiến cái nhìn của thi nhân về thế giới bỗng đổi khác, tất cả đều nhuốm màu của lo âu, bàng hoàng, thoảng thốt.

Đấy là lí do vì sao mạch cảm xúc trong đoạn thơ bỗng liên tục thay đổi: từ việc xuất hiện các kiểu câu định nghĩa, tăng cấp nghĩa là (3 lần/3 dòng thơ), để định nghĩa về mùa xuân và tuổi trẻ, mà thực chất là để cảm nhận về hiện hữu và phôi pha đến ý tưởng ràng buộc số phận cá nhân mình với số phận của mùa xuân, tuổi xuân thổ lộ niềm xót tiếc cái phần đẹp nhất của đời người rồi cất lên tiếng than đầy khổ não:

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Cũng từ đây thiên nhiên chuyển hoá từ hợp thành tan:

Cơn gió xinh thì thào trong gió biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bộng dứt tiếng reo thi.

Dường như tất cả đều hoảng sợ bởi những chảy trôi của thời gian, bởi thời gian trôi đe doạ sẽ mang theo tất cả, thời gian trôi dự báo cái phai tàn sắp sửa của tạo vật. Thế là từ đây, thơi gian không còn là một đại lượng vô ảnh, vô hình nữa, người ta nhận ra nó mang hương vị đau xót của chia phôi, người ta phát hiện nó tựa như một vết thương rớm máu trong tâm hồn:

Phân Tích Giá Trị Nội Dung Và Nghệ Thuật Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá

1. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá

Nói đoàn thuyền đánh cá, thực chất là nói đến những người dân chài trên biển, nói đến con người, nhân vật – “ta”. Chú ý rằng nhân vật “ta” là một trong nét đặc trưng nổi bật của thơ ca cách mạng. Những người đánh cá căng buồm ra khơi trong cảnh hoàng hôn chạng vạng. Tiếng hát mở đầu đầy khí thế, lồng ngực “ta” căng như cánh buồm no gió. Biển Đông giàu có chứa trong lòng bao nhiêu loài cá mà “ta” đã rất am tường; cá bạc, cá thu, cá nhụ, cá chim, cá đẻ, cá song,… Tình yêu cuộc sống mới thể hiện qua tiếng hát. Khổ thơ đầu tiên và khổ thơ cuối cũng đều có tiếng hát căng lồng ngực, được gió đưa đi xa khơi: Câu hát căng buồm với gió khơi. Lao động không còn là việc cực nhọc bất đắc dĩ nữa, đây là lao động của “ta”, cho “ta”, con người mới, chủ nhân của chính cuộc đời mình. Tình yêu biển cũng tức là tình yêu đất nước hòa vào tình yêu cuộc đời mới:

Ta hát bài ca gọi cá vào, Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Ý nghĩa cao cả của lao động đánh cá trong tất cả các công đoạn đều được hình dung mang tầm cỡ của những hành động trong vũ trụ, hòa điệu cùng vũ trụ. Lúc thuyền “ta” tiến ra khơi:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng, Lướt giữa máy cao với biển bằng, Ra đậu dặm xa đó bụng biển, Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Khi ta gõ thuyền mời gọi các loài cá đến “dệt” vào lưới ta:

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao. Và khi thuyền đã đầy ắp cá: Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Rồi thuyền ta đem cá từ phía biển Đông tiến về bờ,

Thuyền ta chạy đua cùng mặt trời.

Hình tượng “ta”, chủ nhân chân chính của cuộc sống mới được khắc họa bằng thi pháp đặc sắc. Sức mạnh của bàn tay lao động con người được đo và tả bằng những hình tượng lớn, hào sảng.

2. Hình ảnh biển cả

Bức tranh biển cả tráng lệ bao gồm cả vũ trụ, thiên nhiên, với mặt trời, mặt trăng, gió. Những hình ảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa: “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” gợi ý đất trời, biển cá có linh hồn, có sự sống như một con người. Gió cũng như phụ họa với câu hát, với cánh buồm căng phơi phới tình yêu đời và niềm lạc quan, con người hòa nhịp với vũ trụ. Biển giàu có với hàng trăm loài cá nuôi “ta” lớn. Nếu “ta” là trung tâm của bức tranh vũ trụ thì “cá” là nhân vật trung tâm của biển: Đêm ngày dệt biển mướn luồng sáng: Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông, lấp lánh đuốc đen hồng, cái đuôi quẫy trăng vàng chóe. Tâm trạng phấn chấn, yêu cuộc sống của người đánh cá trong không khí náo nức dựng xây cuộc sống mới đã hiện lên qua những sắc màu sinh động của biển cả. Tác giả đã sáng tạo nhiều hình ảnh đặc sắc để diễn tả vẻ đẹp huy hoàng, lãng mạn của biển cả,- của các loài cá, cảnh quăng lưới,…

Không gian thơ mang tầm kích rộng lớn và đầy màu sắc là môi trường hoạt động của “ta”. Biển bằng mênh mông, đối xứng với mây cao tạo nên ấn tượng khoảng không bao la, khoáng đạt. Gió là hình tượng vũ trụ gió là sức mạnh, gió căng buồm, đẩy thuyền đi xa, gợi sự tự do. Mặt trời, mặt trăng là nguồn sáng tạo nên bức tranh đầy màu sắc cho thế giới. Như hòn lửa đỏ rực – mặt trời đang lặn sau mặt biển. Buồm căng sáng dưới trăng; những con cá quẫy dưới trăng gợn ánh vàng chóe,ánh đuốc đen hồng và ngày mai, lại một rạng đông, mặt trời lại nhô lên tô điểm cho biển trời một màu mới, màu nắng hồng, vẩy bạc đuôi vàng của cá lóe rạng trong hình minh. Trung tâm của bức tranh vũ trụ ấy vẫn là con người. Con người cùng đất trời, biển cả vẽ nên bức tranh lao động thật tươi sáng, lạc quan.

Nghệ thuật trong bài thơ mang tiết tấu nhịp điệu của thời gian lao động khẩn trương, mạnh mẽ. Lúc đoàn thuyền ra khơi là hoàng hôn và khi “ta” từ biển quay về đất liền, mát trời lại nhỏ lên mang màu mới. Thuyền lướt gió, “ta” hát, gõ nhịp gọi cá vào, cá đêm ngày dệt muôn luồng sáng trên tấm thảm biển trăng lên cao dần trong đêm như gõ nhịp cùng ta, cả quầy. đêm thở, rồi sao mờ ta kéo lưới trĩu nặng cá – kéo xoăn tay – cho kịp trời sáng và lóe sáng rạng đông là vẩy cá bạc đuôi vàng. Một buổi mai nắng hồng và ta xếp lưới chào một ngày mới. mặt trời nhô màu mới. Tất cả nhịp nhàng, khẩn trương, hài hòa giữa nhịp lao động của con người và nhịp vũ trụ. Ngày và đêm, nhịp sống vĩnh cửu của con người và biển cả. Một bài thơ có rất nhiều động từ diễn tả hành động, tiết tấu của những người đánh cá và của đại dương, của vũ trụ!

3. Thể thơ và nhịp điệu

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá là tiếng hát lao động tươi vui, khỏe khoắn, đầy niềm tự hào trước cuộc sống mới. Phù hợp với âm hưởng chung đó. thể thơ và ngôn ngữ được sử dụng rất. linh hoạt, sáng tạo. Theo mô hình chung, trong mỗi khổ thơ, sự việc được kể, tả trước, tiếp sau đó là liên tưởng, cảm xúc. Chẳng hạn như trong khổ thơ thứ nhất, sau hai câu tả kể không gian hoàng hôn Mặt trời xuống biển như hòn lửa, Sóng đã cài then, đêm sập cửa và một câu kể Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, ta gặp một câu diễn tả cảm hứng phơi phới: Câu hát căng buồm cùng gió khơi. Tuy nhiên, mạch cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật trữ tình làm vỡ khuôn khổ cổ điển của các khổ thơ truyền thống này. Trong khổ thơ thứ hai, ta thấy có câu thơ bắt cầu nối “hát” ở khổ thơ thứ nhất sang khổ thơ thứ hai: Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng… Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Có khổ thơ không kể hay tả mà chỉ thuần túy liên tưởng:

Ta hát bài ca gọi cá vào Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao Biển cho ta cá như lòng mẹ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Do vậy mà về hình thức thì bài thơ vẫn có dáng dấp truyền thống song nội dung mới đã thay đổi thi pháp của thể thơ. Không nói đến thơ tự do, trong thơ nói chung, vần thơ và thanh điệu của các từ đứng ở vị trí hiệp vần rất quan trọng, tạo nên đặc trưng nhạc tình của toàn bài.

Về cách hiệp vần, bài thơ không phải là dạng thơ tự do, không vần, song vần thơ đã được tổ chức không theo cách hiệp vần truyền thống. Khổ đầu có hai vần lửa (cửa) và khơi, hai câu đầu hiệp vần lửa, của đều ở thanh trắc; hai câu sau hiệp vần khơi, lại thuộc thanh không. Khổ thứ hai, lại tổ chức hiệp vần hai câu 1 và 3 (lặng và sáng – thanh trắc), hai câu 2 và 4 ( thoi và ơi – thanh không). Khổ thứ 3 lại hiệp vần như một khổ thơ Đường luật,… Nhìn chung, dạng thức hiệp vần và thanh điệu của các khổ thơ rất đa dạng. Nhịp điệu, thanh điệu trong mỗi câu thơ cũng đa dạng, bất ngờ. Phương tiện ngôn ngữ từ tạo nên giọng điệu cung phù hợp với điệu tâm hồn khỏe khoắn, mạnh mẽ trong không khí lạc quan của cuộc sống mới.

Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ Đoàn thuyền đánh cá – Gợi ý

I. Những kiến thức chung

Huy Cận (1919-2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận

Quê ở tỉnh Hà Tĩnh.

Là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơLửa thiêng (1940).

Là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945:

+ Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế.

+ Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống.

1996,ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật.

Tác phẩm tiêu biểu: Lửa thiêng(1940); Vũ trụ ca( 1942); Trời mỗi ngày lại sáng (1958);Đất nở hoa (1960); Bài thơ cuộc đời (1963); Hai bàn tay em (1967)…

Bài thơ được viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới. Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

Bài “Đoàn thuyền đánh cá” được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập thơ “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958).

b. Bố cục: 3 phần:

+ Hai khổ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.

+ Bốn khổ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.

+ Khổi cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.

II. Phân tích tác phẩm

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa … Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

+ Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa

Biện pháp so sánh làm nên vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của biển khơi. Bút phán nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then, đêm sập cửa” làm cho thiên nhiên trở nên gần gũi với con người.

+ 2 câu thơ tiếp theo nói về hoạt động của con người:

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Co n người hiện lên dưới phông nền của thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Vẻ đẹp gợi lên ở đây vừa hùng vĩ, vừa nên thơ. Từ “lại” chỉ mức độ đều đặn thường xuyên của hoạt động “ra khơi”. Câu thơ “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” thể hiện niềm vui lao động, sự hào hứng cho chuyến ra biển của ngư dân. Từ “căng” như nhãn tự của khổ thơ, giống như một sự tràn căng về sức sống, về niềm tin vào lao động và khả năng chinh phục biển khơi của con người.

Tiếng hát đầy hứng khởi cũng thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt thuân lợi giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

Câu hát căng buồm cùng gió khơi

” Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển:

Cảm hứng lãng mạn giúp nhà thơ phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương.

Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:

Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

+ Con thuyền được tác giả nâng tầm thành tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước.

+ Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên oai phong giữa biển cả với tư thế của người làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe

Biện pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh nhiều màu sắc. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé/ Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”. Hai câu thơ làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sinh động hẳn lên. Tác giả dùng đại từ “em” để nói về những con cá giống như một sự hòa nhập và thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên, biển cả.

+ Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm:

Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng Ta hát bài ca gọi cá vào

“Đêm thở sao lùa nước Hạ long”

Sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ.

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

+ “Gõ thuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người.

+ Người dân chài hát bài ca gọi cá vào bằng bài ca, khúc hát của người lao động. Mọi sự mệt nhọc của mưu sinh dường như tan biến, nhường chỗ cho những niềm hân hoan, hứng khởi. Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:

Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về

Đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về trong bình minh rực rỡ, tráng lệ.

Câu đầu của khổ thơ lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối của khổ thứ nhất, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.

Phép nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời” cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân.

Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển…

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng,lạc quan.

Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: So sánh, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê,…

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

III – Tổng kết:

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” vẽ nên bức tranh tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên và hình ảnh con người hăng say lao động. Bài thơ cũng bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.