HOA MAI THƠ THIỆU UNG Hoàng Kim
Hoa Mai Thi Thiệu Ung là một trong ba bộ đại kỳ thư đặc biệt nổi tiếng văn hoá cổ Trung Hoa lưu lại suốt ngàn năm.”Muốn biết bác phục hỏi nguyên nhân xưa Hoa Mai là khởi đầu của mùa xuân”. Câu đầu tiên Hoa Mai Thi Thiệu Ung đã viết vậy. Thiệu Ung (1011 – 1071) tự là Nghiêu Phu, hiệu là Khang Tiết, được truyền tụng là một nhà tiên tri Trung Quốc thời Bắc Tống có khả năng trực giác huyền diệu và bí ẩn. Ông quê ở Phạm Dương, Hà Bắc, sau di cư sang Cộng Thành, cuối cùng ẩn cư ở Lạc Dương. Ông đã dùng thuật Dịch số thời biến và bát quái âm dương ngũ hành để dự báo sinh vượng thịnh suy vong các đổi họ lớn trong lịch sử và giải đoán vận khí, sự việc với sự chính xác đến kinh ngạc.
Lão nông và Thiệu Ung (Jane Ku)
Một buổi sáng mùa xuân, Thiệu Ung dựng quầy xem quẻ số gần chân cầu. Lúc đó, một lão nông dừng lại và hỏi ông về tài vận của mình. Thiệu Ung yêu cầu ông lão chọn từ các mảnh giấy có ký tự chữ Hán trên đó. Ông lão bèn chọn một thẻ và đưa nó cho Thiệu Ung, trên đó là ký tự “?”. Thiệu Ung nói với ông lão: “Chúc mừng cụ, cụ sẽ được một bữa trưa ngon miệng ngày hôm nay. Cụ hãy về nhà và chờ đợi”. Ông lão về nhà thấy đứa cháu trai đang đợi ông và nói: “Hôm nay là ngày mừng thọ 60 tuổi của cha cháu, xin mời ông đến dự bữa tiệc rượu”. Ông lão ngạc nhiên, thay đổi y phục và vui mừng tới dự.
Chiều hôm ấy, một người đàn ông khác đến quầy quẻ số của Thiệu Ung và hỏi xem vận mệnh. Ông ta cũng chọn đúng thẻ có ký tự “?”. Thiệu Ung nói với người đàn ông rằng: “Thẻ này không được tốt. Ông sẽ gặp chuyện không lành hôm nay và ông sẽ bị bắt”. Người đàn ông nghĩ ngay rằng không thể nào có chuyện ông bị bắt nếu ở trong nhà, vì vậy, ông trở về và leo lên giường. Đang ngủ, ông chợt tỉnh giấc khi có người đàn bà hét to lên rằng những con lợn của ông đang phá nát khu vườn rau của bà. Trong lúc tức giận, ông giơ tay xô người đàn bà kém may mắn, vốn đang ốm dở, ngã phịch xuống và bất đắc kỳ tử. Ngay sau đó, ông bị bắt và tống giam.
Cũng vào chiều hôm đó, khi Thiệu Ung chuẩn bị dọn quầy để về, thì một người đàn ông đi từ phía Nam tới và xin ông nán lại. “Đại nhân, tôi đã nghe nói về tài năng tiên đoán của ông, vậy xin ông hãy cho biết vận mệnh của tôi”. Chiếc thẻ vị khách này chọn cũng là ký tự “?”. Thiệu Ung nói: đó không phải là điềm tốt và ông sẽ bị ướt đẫm trong ngày. Vị khách không tin vì hôm đó là ngày nắng và trời không mây, nhưng khi ông vừa về đến nhà và vào cổng thì ông đã bị vợ vô tình hắt một chậu nước vào người đúng lúc ấy.
“Lịch sử, nếu xem trong một thời- không ngưng đọng, thì cũng như một vở kịch, với trời làm màn, đất là đài, ngày đêm không ngừng xoay vần mà diễn biến. Các nhân vật trong vở kịch này, bất luận là anh hùng đội trời đạp đất, thét mây hô gió như thế nào, thì đều trôi dạt trong cõi hồng trần cuồn cuộn. Liệu ai có thể thực sự làm chủ vận mệnh của chính mình?
Tôi dạo chơi núi Xanh, Thiên An Môn, Cố Cung, Di Hòa Viên, Thiên Đàn, suy ngẫm từ Núi Xanh Bắc Kinh trong ngày Quốc tế Lao động, ngắm những nơi lưu dấu các di sản của những triều đại hiển hách nhất Trung Hoa, lắng nghe đất trời và các cổ vật kể chuyện. Tôi bất chợt gặp được một bé gái xinh đẹp tại điểm linh ứng của núi Xanh (景山, Jǐngshān, Cảnh Sơn, Green Mount), ngọn núi địa linh của đế đô và đã bế cháu gái ngắm nhìn trục hướng tâm của Cố Cung Bắc Kinh.
Tôi cũng lại may mắn gặp được một nghệ sĩ dân gian tập hát và tặng sách. Chuyện xưa và nay gợi nhớ lời nhắn gửi sâu xa của bậc hiền minh lỗi lạc Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Muốn bình sao chẳng lấy nhân / Muốn an sao lại bắt dân ghê mình” “Biển Đông vạn dặm giang tay giữ. Đất Việt muôn năm vững thái bình) (Vạn lý Đông minh quy bá ác/ Ức niên Nam cực điện long bình). Suy ngẫm về cuộc cách mạng Xanh và đỉnh cao Hòa Bình. Lời giáo sư Norman Borlaug văng vẳng bên tai tôi: “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó.” Ngày trước đó, tôi vinh hạnh được làm việc với giáo sư Zhikang Li, trưởng dự án Siêu Lúa Xanh (Green Super Rice) chương trình nghiên cứu lúa nổi tiếng của CAAS & IRRI và có cơ hội tiếp cận với các nghiên cứu của Viện Hàn lâm Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc. Sự hiền minh lỗi lạc của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, câu chuyện Hoa Mai Thi Thiệu Ung và di sản vô giá của giáo sư Norman Borlaug cùng với các bậc Thầy về cách mạng xanh mãi là niềm tin và nổ lực của chúng ta!
Chùm ảnh đẹp ghi từ mờ ảo sương sớm cho đến xế chiều tại điểm đến ao ước và những tư liệu quý thu thập được trong chuyến đi đặc biệt này lắng đọng trong tôi một di sản và bài học lịch sử cần tiếp tục giải mã. Tôi đã đúc kết Sấm Trạng Trình và đã viết bài Ngày xuân đọc Trạng Trình, nay sẽ cố gắng sưu tầm Hoa Mai Thi Thiệu Ung văn bản gốc tiếng Trung và những bản dịch nghĩa, dịch thơ tiếng Việt của 10 bài thơ Hoa Mai nói trên.
Hoa Mai thơ Thiệu Ung là kỳ thư cần đọc lại. Tôi may mắn đã được Thăm ngôi nhà cũ của Darwin và đã từng lắng mình trước câu hỏi: Liệu “nguồn gốc muôn loài” Darwin có thực sự đúng là quy luật tiến hóa của muôn loài không? Liệu câu nói thông tuệ của ông ” Kẻ sống sót không phải là kẻ mạnh nhất hay thông minh nhất, mà là kẻ thích nghi tốt nhất” Charles Darwin (1809-1882) đã phải là một giải pháp tốt và kinh nghiệm kinh điển như sự lựa chọn của Bao Công thành thế lực bất khuất trung chính không bị cuốn vào vòng xoáy tranh đoạt?.
Thơ Hoa Mai Thiệu Ung những lời tiên tri CHUẨN XÁC đến kinh người !!! là chuyện nghìn năm bí ẩn liên hệ thực tiễn với những bài thơ dự báo sau này tôi chợt thấy thú vị giải pháp của cụ Trạng Trình Việt Nam trong những ẩn ngữ kín đáo.
HOA MAI TRONG TẾT VIỆT
Hoa Mai Thi Thiệu Ung Trung Quốc đối sánh với Hoa Mai thơ Mãn Giác Việt Nam đã cách đây trên dưới ngàn năm, cùng với Tảo Mai Trần Nhân Tông và Cự ngao đới sơn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cách đây trên năm trăm năm thực sự. Những bài thơ đó đều là những dự ngôn rất sâu sắc về quy luật của tạo hóa. Tôi xin được trích dẫn mà không lạm bàn.
Hoa Mai thơ Mãn Giác
Bài kệ “Cáo tật thị chúng” (Cáo bệnh với đệ tử) của thiền sư Mãn Giác (1052 – 1096) trong Thiền Uyển Tập Anh và lời bình của anh Hoàng Ngọc Dộ về cốt cách hoa mai là nhân cách người hiền, đã đi thẳng vào lòng tôi:
Xuân khứ bách hoa lạc Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tùng đầu thượng lai. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa cười Trước mặt việc đi mãi Trên đầu già đến rồi Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua sân trước một cành mai.
(Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Thiền sư Mãn Giác viết bài kệ “Cáo tật thị chúng” khi Người 45 tuổi, sau đó Người đã an nhiên kiết già thị tịch. Bài thơ kiệt tác vỏn vẹn chỉ có sáu câu, ba mươi tư chữ, bền vững trãi nghìn năm. Đối diện với cái chết, thiền sư ung dung, tự tại, thấu suốt lẽ sinh tử: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết / Đêm qua sân trước một cành ma i.
Lời thơ thanh thoát, giản dị một cách lạ lùng! Thực tế cuộc sống đã được hiểu đầy đủ và rõ ràng. Bản tính cuộc sống là hạnh phúc và đau khổ, vui vẻ và phiền muộn, sự thiếu hoàn thiện và luôn vô thường. Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười/ trước mặt việc đi mãi/ trên đầu già đến rồi. Đó là qui luật muôn đời, hoa có tàn có nở, người có diệt có sinh. Hạnh phúc cuộc sống là phong thái luôn vui vẻ và sung sướng, thanh thản và thung dung, không lo âu, không phiền muộn. Sống với một tinh thần dịu hiền và một trái tim nhẹ nhõm.
Tình yêu cuộc sống thể hiện trong ý xuân và trật tự các câu thơ.” Xuân đi trăm hoa rụng/ xuân đến trăm hoa cười” ẩn chứa triết lý sâu sắc hơn là ” Xuân đến trăm hoa cười, xuân đi trăm hoa rụng/”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) trong bài thơ nôm “Chín mươi” có câu: “Chín mươi thì kể xuân đà muộn/ Xuân ấy qua thì xuân khác còn”. Tăng Quốc Phiên chống quân Thái Bình Thiên Quốc “càng đánh càng thua” nhưng trong bản tấu chương gửi vua thì ông đã quyết ý đổi lại là “càng thua càng đánh”. Việc “đánh thua” thì vẫn vậy nhưng ý tứ của câu sau mạnh hơn hẵn câu trước.
‘Tảo Mai’ thơ Nhân Tông
Phiên âm Hán Việt Ngũ xuất viên ba kim niễn tu, San hô trầm ảnh hải lân phù. Cá tam đông bạch chi tiền diện, Tá nhất biện hương xuân thượng đầu. Cam lộ lưu phương si điệp tỉnh, Dạ quang như thủy khát cầm sầu. Hằng Nga nhược thức hoa giai xứ Quế lãnh thiềm hàn chỉ ma hưu!
Dịch nghĩa Năm cánh hoa tròn nhị điểm vàng, [Như] bóng san hô chìm, [như] vảy cá biển nổi. Cành hoa trắng xóa suốt trong ba tháng đông, Sang đầu xuân chỉ còn loáng thoáng một vài cánh thơm nhẹ. Móc ngọt chảy mùi thơm làm chú bướm si ngây tỉnh giấc, ánh sáng ban đêm như nước khiến con chim khát buồn rầu. Nếu Hằng Nga biết được vẻ đẹp thanh nhã của hoa mai, Thì có ưa gì cây quế với cung thiềm lạnh lẽo.
Phiên âm Hán Việt Ngũ nhật kinh hàn lãn xuất môn, Đông phong tiên dĩ đáo cô côn (căn). Ảnh hoành thủy diện băng sơ bạn, Hoa áp chi đầu noãn vị phân. Thúy vũ ca trầm sơn điếm nguyệt, Họa long xuy thấp Ngọc Quan vân. Nhất chi mê nhập cố nhân mộng, Giác hậu bất kham trì tặng quân.
Dịch nghĩa Chỉ năm ngày sợ rét lười ra khỏi cửa, Mà gió xuân đã sớm đến với gốc cây cô đơn. Bóng ngả trên mặt nước, băng giá bắt đầu tan, Hoa trĩu nặng đầu cành, hơi ấm chưa định rõ. Giọng ca Thúy vũ lắng chìm mặt trăng xóm núi. Tiếng sáo Họa long ẩm ướt đám mây Ngọc Quan. Một cành hoa lạc vào giấc mộng cố nhân, Tỉnh dậy, không thể đem tặng anh được.
Cự ngao đới sơnNguyễn Bỉnh Khiêm
Bích tầm tiên sơn triệt đế thanh Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực Trước cước trào vô quyển địa thanh Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình Ngã kim dục triển phù nguy lực Vãn khước quan hà cựu đế thành
Dịch nghĩa:
Con rùa lớn đội núi
Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình Ta nay muốn thi thổ sức phù nguy Lấy lại quan hà, thành xưa của Tổ tiên.
Dịch thơ:Con rùa lớn đội núi
Núi tiên biển biếc nước trong xanh Rùa lớn đội lên non nước thành Đầu ngẩng trời dư sức vá đá Dầm chân đất sóng vỗ an lành Biển Đông vạn dặm dang tay giữ Đất Việt muôn năm vững trị bình Chí những phù nguy xin gắng sức Cõi bờ xưa cũ Tổ tiên mình.
Ngày xuân đọc Trạng Trình “Biển Đông vạn dặm dang tay giữ.Đất Việt muôn năm vững thái bình”. Đó là hai câu thơ của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) tại bài thơ “Cự Ngao Đới Sơn” trong Bạch Vân Am Thi Tập. Thông điệp ngoại giao của cụ Trạng Trình nhắn gửi con cháu về lý lẽ giữ nước rất rõ ràng: Muốn bình sao chẳng lấy nhân Muốn an sao lại bắt dân ghê mình. Điều lạ là trong câu thơ cụ Trạng dịch lý, ẩn ngữ, chiết tự tương thích với cách ứng xử hiện thời. “Cổ lai nhân giả tri vô địch, Hà tất khu khu sự chiến tranh” Từ xưa đến nay, điều nhân là vô địch, Cần gì phải khư khư theo đuổi chiến tranh. “Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng chiếu cùng lư bộ ốc dân” Nếu nhà vua có bó đuốc sáng thì nên soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo . Trời sinh ra dân chúng, sự ấm no, ai cũng có lòng mong muốn cả”; “Xưa nay nước phải lấy dân làm gốc, nên biết rằng muốn giữ được nước, cốt phải được lòng dân”. Đạo lý, Dịch lý, Chiết tự và Ẩn ngữ Việt sâu sắc thay ! xem tiếp Ngày xuân đọc Trạng Trình
Video yêu thích
Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh ThúyQuê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh TuấnBan Mai; Chỉ tình yêu ở lạiKimYouTube
Trở về trang chínhHoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on Twitter