Xuân Diệu I/ MỤC TIÊU BÀI HỌC : – Cảm nhận được niềm khao khát sống mãnh liệt , sống hết mình , và quan niệm về thời gian , tuổi trẻ và hp của XD được thể hiện qua bài thơ . – Thấy được sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc mãnh liệt dồi dào , và mạch lí luận chặt chẽ , cùng với những sáng tạo độc đáo về nt của nhà thơ . II/ PHƯƠNG PHÁP LÊN LỚP : Gợi mở , phân tích , đàm thoại , III/ TIẾN TRÌNH LÊN LỚP : 1/ Oån định lớp : 2/ Kiểm tra bài cũ : 3/ Bài mới : Trong bài học hôm nay , chung ta sẽ được làm quen với một nhà thơ được coi là nhà thơ “mới nhất trong các nhà mơi” , từ dùng của Hoài Thanh , một hà thơ luôn khát khao với cuộc sống cuồng nhiệt , và luôn lo sợ trước sự trôi đi nhanh chóng của thời gian . Đó chính là nhà thơ XD với một tác phẩm rất nổi tiếng có tiêu đề “Vội Vàng” . Gọi hs đọc tiểu dẫn . Em hãy tóm tắt những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của XD . Sau Cách Mạng tháng tám năm 1945 thơ XD có đặc điểm gì nổi bật ? Bài thơ là một dòng cảm xúc mãnh liệt , dào dạt tuôn trào , nhưng vẫn theo mạch luân lí có bố cục chặt chẽ . Theo em bài thơ nên chia làm mấy đoạn ? Giáo viên gọi một hs đọc 4 câu đầu và cho biết suy nghĩ của mình về bốn câu thơ đó . Em có cảm nhận ntn về những câu thơ tiếp theo? XD là người ntn ?điều đó có ảnh hưởng gì đến giọng thơ đoạn hai không ? Gợi ý : Là con người thiết tha về cuộc sống trần thế , cảm nhận được sự trôi đi nhanh chóng của thời gian , ý thức được sự ngắn ngủi của đời người . Cho nên giọng thơ ở đoạn hai đã thể hiện sự biến đổi , không còn mềm mại mượt mà , mà trở nên hờn giận rồi trở nên u hoài , u uất . Theo XD mỗi khoảng khắc trôi đi là một sự mất mát chia lìa , điều này được tác giả thể hiện rất rõ trong bài .Em hãy lấy những dẫn chứng tiêu biểu trong bài để minh chứng cho điều đó . Các cảm nhận về thời gian của XD xuất phát từ đâu? Đây là đoạn thơ đã bộc lộ lòng yêu đời cuồng nhiệt , khiến nhà thơ phải hối hả vội vàng đến với cuộc sống . Em hãy tìm những hình ảnh ngôn từ , nhịp điệu tiêu biểu để chứng minh điều đó . Em có nhận xét gì về đoạn thơ trên? I/Đọc hiểu tiểu dẫn : 1/ Tác giả : -Xuân Diệu ( 1916- 1985 ) -Tên khai sinh : Ngô Xuân Diệu , bút danh khác : Trảo Nha -Quê cha ở Hà Tĩnh , quê mẹ ở Bình Định , Xuâân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn . – Trước c/mg t8 XD là nhà thơ mới , “mới nhất trong các nhà thơ mới” -Với một quan niệm sống mới mẻ cùng với một sự cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo . Ông là một nhà thơ của mùa xuân , t/y tuổi trẻ , với một giọng thơ sôi nổi đắm say , yêu đời thắm thiết. – Sau c/mg t8 thơ XD hướng vào mạnh vào thực tế đời sống , giàu tính thời sự . – XD từng là uy viên ban chấp hành hội nhà văn VN các khoá I, II, III , là viện sĩ thông tấn viện hàn lâm nt cộng hoà dân chủ Đức . XD được nhà nước truy tặng giải thưởng HCM về vhnt năm 1996 , ông cũng là người được mệnh danh là ông hoàng thơ tình của VN . 2/ Xuất xứ tác phẩm : Bài thơ Vội Vàng được in trong tập Thơ Thơ xuất bản năm 1938 . II / Tìm hiểu văn bản : 1/ Bố cục : Bài thơ là một dòng cảm xúc mãnh liệt tuôn trào , có bố cục chặt chẽ ,có thể chia làm ba đoạn . -Đoạn 1 : 13 câu đầu :Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế thiết tha . -Đoạn 2 : câu 14-29 : thể hiện sự băn khoăn trước sự ngắn ngủi của đời người , va sự trôi đi nhanh chóng của thời gian . – Đoạn 3 : câu30 – hết :thái độ cuống quýt , vội vàng để tận hưởng phút giây tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời , của vũ trụ . 2 / Phân tích : a/ Lòng yêu đời , yêu c/s cuồng nhiệt : -Bốn câu thơ đầu diễn tả một ước muốn thật phi lí , trái qui luật tự nhiên , bởi nhà thơ muốn giữ mãi hương vị nồng nàn của sự sống . -Những câu tiếp khắc hoạ cuộc sống that hưũ tình lung linh hương sắc , tất cả đều non tơ tươi tắn . – Điệp từ “này đây “ diễn tả những nét đẹp của cuộc sốn đang ngồn ngộn phơi bày , quyến rũ , diễn tả một cuộc sống tươi đẹp khơi gợi những khát khao của con người . b/ Những băn khoăn về sự ngắn ngủi của đời người , trước sự trôi đi nhanh chóng của thời gian .( tâm trạng phấp phỏng thời gian “) – Với hai câu thơ : “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già .” + Hai câu thơ trên tác gải đã sử dụng biện pháp nt đối lập : ðkhảng định sự đồng nhất giữa mùa xuân và cuộc đời con người nói chung , mùa xuân trôi đi thì cuộc đời con người cũng chấm hết . “ Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất “ -Thời gian lấy mất mùa xuân , cũng có nghĩa là lấy đi tuổi trẻ của nhà thơ Đây là nỗi lo lắng nhất của XD , bởi ông luôn lo sợ thời gian trôi đi thì tuổi trẻ cũng không còn . “lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật , Không cho daì thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại “ L àm sao cuộc đời con người lại có hai lần “tuổi trẻ” , và khi thời gian đã trôi nhanh thì liệu tuổi trẻ có còn ? Như vậy , “ xuân vẫn tuần hoàn” thì c/s con người còn ý nghĩa gì khi tuổi trẻ đã hết Nếu không còn tuổi trẻ thì c/s con người cũng chẳng còn : “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi , Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời Mùi tháng năm đều rướm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt “ Qua c ái nhìn độc đáo của XD , mỗi khoảnh khắc trôi qua lại có một sự mất mát chia lìa : Mùi .biệt “ . Mỗi sự vật trong vũ trụ đang từng giây , từng phút ngậm ngùi chia li , tiễn biệt một phần đời của mình : Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa . Cách cảm nhận về thời gian như vậy , xét đến cùng là do sự thức tỉnh sâu sắc về cái tôi cá nhân , về sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời , nâng nui trân trọng từng giây , từng phút của cuộc đòi , nhất là năm tháng của tuổi trẻ c/ Quan niệm sống vội vàng gấp gáp , để tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên chóng tàn phai , p/h của tuổi trẻ khộng lặp lại . -Hình ảnh : tươi mới đầy sức sống : Sự sống mơn mởn ; mây đưa gió lượn ; cánh bướm với tình yêu ; cái hôn nhiều , non ước cỏ cây ; mùi thơm , ánh sáng , thanh sắc ; xuân hồng . -Ngôn từ : động từ mạnh , tăng tiến dần : + ôm , riết , say , thâu , chếnh choáng , đã đầy , no nê, cắn . -Nhịp điệu : dồn dập , sôi nổi , hối hả, cuồng nhiệt :được tạo nên bởi những câu dài ngắn xen kẽ , vối nhiều động từ có tác dụng tạo nhịp điệu và ngắt nhịp nhanh , mạnh : “ta” :lặp lại 5 lần ; và “3lần”; “cho” 3 lần . Đoạn thơ này rất tiêu biểu cho sự cách tân nghệ thuật của Xuân Diệu trong thơ mới . III/ Ghi nhớ sgk
Top 10 # Bài Thơ Vội Vàng Giáo Án Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Bài Thơ Vội Vàng Giáo Án xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung Bài Thơ Vội Vàng Giáo Án để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Giáo Án Dạy Ngữ Văn 11 Tiết 79, 80: Vội Vàng
– Giúp học sinh cảm nhận được niềm khao khát sống mãnh liệt, hết mình và quan niệm về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc của Xuân Diệu. Thấy được sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch luận lí sâu sắc, những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật của nhà thơ.
– Rèn luyện kĩ năng đọc- hiểu, phân tích một bài thơ hiện đại.
– Có ý thức về cuộc sống, về tuổi trẻ.
III. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN:SGK,SGV
IV. HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ :5p
Cảm nhận của em về cái tôi ngông của nhà thơ Tản Đà qua bài Hầu Trời.
Tieát: 79- 80. Ngaøy soaïn:.. Ngày dạy:.. VỘI VÀNG. Xuân Diệu. I. MỤC TIÊU. - Giúp học sinh cảm nhận được niềm khao khát sống mãnh liệt, hết mình và quan niệm về thời gian, tuổi trẻ và hạnh phúc của Xuân Diệu. Thấy được sự kết hợp nhuần nhị giữa mạch cảm xúc dồi dào và mạch luận lí sâu sắc, những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật của nhà thơ. - Rèn luyện kĩ năng đọc- hiểu, phân tích một bài thơ hiện đại. - Có ý thức về cuộc sống, về tuổi trẻ. III. PHƯƠNG TIỆN THỰC HIỆN:SGK,SGV IV. HOAÏT ÑOÄNG DAÏY HOÏC 1. Kieåm tra baøi cũ :5p Cảm nhận của em về cái tôi ngông của nhà thơ Tản Đà qua bài Hầu Trời. 2.Giảng bài mới TL Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Mục tiêu cần đạt 10 Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu khái quát. GV:Yêu cầu học sinh đọc tiểu dẫn SGK, sau đó giúp học sinh tóm tắt về tác giả và tác phẩm. GV: Thuyết giảng: Phép biện chứng tâm hồn. Tâm hồn con người là một lĩnh vực tinh tế, sinh động, không đơn giản theo một lôgic thông thường. Vui- buồn Lạc quan- bi quan Yêu đời- yếm thế. Hoạt động 1:Đọc tiểu dẫn SGK, tóm tắt. I. Tìm hiểu chung: 1. Tác giả. - Xuân Diệu ( 1916- 1985), quê cha ở Can Lộc- Hà Tĩnh, quê mẹ ở Tuy Phước- Bình Định. - Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. -Là nhà thơ của tình yêu của mùa xuân và tuổi trẻ với giọng thơ sôi nổi đắm say và yêu đời thắm thiết. -Xuân Diệu đóng góp cho nền văn học Việt Nam hiện đại trên nhiều lĩnh vưc: Thơ ca, văn xuôi, tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học, - Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Xuân Diệu thể hiện hai tâm trạng trái ngược nhau: Vừa rất yêu đời, rất thiết tha với cuộc sống; vừa hoài nghi, chán nản, cô đơn. 2.Tác phẩm: Bài Vội vàng được in trong tập Thơ thơ. Đây là bài thơ thể hiện rõ tâm trạng của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. 70 Hoạt động 2: Hướng dẫn học sinh đọc- hiểu chi tiết. GV: Yêu cầu học sinh đọc diễn cảm bài thơ. GV:Ngay đầu bài thơ là một ước muốn của tác giả, vậy tác giả ước muốn điều gì? Điều ước muốn đó có khác thường không? GV: Cách thể hiện ước muốn đó? Mục đích của tác giả là để làm gì? * Ý muốn của nhà thơ có vẻ vô lí nhưng niềm khao khát lại hoàn toàn có lí. Bởi cuộc sống đang bày ra trước mắt nhà thơ những hình ảnh, âm thanh tuyệt đẹp như mời mọc như quyến rũ con người. GV:Em hãy chỉ ra những hình ảnh, âm thanh, sắc màu của mùa xuân? GV: Hãy phân tích giá trị biểu cảm của các tính từ trong đoạn thơ? Cách thể hiện của tác giả có gì đặc biệt? GV: Đoạn thơ thể hiện tâm trạng gì của tác giả? GV: Vì sao tác giả rơi vào tâm trạng hoài nghi, chán nản? GV: Xuân Diệu đã cảm nhận quy luật của tự nhiên như thế nào? GV: Phân tích nghệ thuật trong đoạn thơ? GV: Thiên nhiên bây giờ như thế nào? Em suy nghĩ gì về câu thơ của Nguyễn Du: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. GV: Tâm trạng của Xuân Diệu trong bài thơ có phải là tâm trạng chung của thanh niên đương thời hay không? Vì sao họ lại có tâm trạng như vậy? GV: Em nghĩ gì về thái độ sống cuồng nhiệt của Xuân Diệu ở cuối bài thơ? Điều ấy được thể hiện qua những từ ngữ như thế nào? GV: Nhìn toàn bài, tâm trạng bao trùm tác phẩm là tâm trạng nào? Yêu đời hay chán nản, bi quan? Hoạt động 2: Đọc diễn cảm bài thơ SGK. HS: Suy nghĩ, trả lời. - Điệp từ: Tôi muốn. - Động từ mạnh mẽ: Tắt, buộc. - Giọng thơ dứt khoát với thể 5 chữ. Ngắt câu giữa dòng . Đối lập Giọng thơ cũng trở nên buồn Nhuốm màu tang thương, ảm đạm- đối kháng với con ngườ Tâm trạng của Xuân Diệu là tâm trạng chung của các nhà thơ mới bấy giờ: Chế Lan Viên, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, - Bởi họ đều mang thân phận của một người dân mất nước, sống trong cảnh xã hội ngột ngạt tù túng Đoạn thơ thể hiện niềm say sưa yêu đời, yêu cuộc sống của nhà thơ. . - Thái độ sống rất tích cực, tận hưởng từng giây từng phút hương vị của tuổi trẻ, thiên nhiên. - Thể hiện: Những động từ kết hợp với những tính từ liên tiếp thể hiện khát vọng mãnh liệt, vội vàng của tác giả. II. Đọc - hiểu văn bản: 1.Tiếng reo vui trước dáng vẻ tươi đẹp của thiên nhiên : - Mở đầu bài thơ là một ước muốn hết sức táo bạo mãnh liệt :muốn ngự trị thiên nhiên, tước đoạt quyền của tạo hóa: "Ước muốn ngăn thời gian chặn sự già nua tàn tạ để tận hưởng hết hương sắc của mùa xuân. -Ước muốn của thi nhân xuất phát từ lòng yêu cuộc sống đến tha thiết ,say mê .Nhà thơ dùng mọi giác quan để để đón nhận và hưởng thụ hương sắc trần gian. -Bức tranh thiên nhiên có đủ ong bướm hoa lá yến anh và cả ánh bình minh rực rỡ "tràn đầy sinh lực ,ngồn ngộn sắc xuân, hương xuân và tình xuân. - Điệp từ :Này đây, diễn tả tâm trạng vui sướng, say mê kết hợp với phép liệt kê làm cho cảnh mùa xuân thêm rực rỡ, tươi thắm. ]Đó là một tâm trạng say sưa, mê đắm, yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. 2.Tâm trạng chán nản hoải nghi bi oan trước thực tế : -- Niềm vui phút chốc tan biến, nỗi lo âu xuất hiện: "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa" -Cách ngắt câu giữa dòng, một tâm trạng trái ngược xuất hiện: Một của khao khát say mê, một của ai hoài, u uất. -- Nhà thơ cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian, vạn vật sẽ thay đổi. Niềm vui tan nhanh như một giấc mộng hão huyền trước cái sự thật khắc nghiệt, phũ phàng, cái lạnh lùng nghiệt ngã của quy luật thời gian. -- Thi sĩ cảm nhận cái giới hạn của đời người trước cái vô biên, vĩnh hằng của đất trời, vũ trụ. Còn trời đất - chẳng còn tôi. Tuổi trẻ - chẳng hai lần thắm lại. - Nghệ thuật : + Đối lập giữa còn - mất; con người - thiên nhiên; quy luật của đất trời - với quy luật của đời người, + Giọng thơ cũng trở nên buồn, ngao ngán, nặng nề u uất. - Thiên nhiên vì thế nhuốm màu tang thương, ảm đạm- đối kháng với con người:Chia phôi, tiễn biệt, hờn, sợ phai tàn, - Tác giả rơi vào tâm trạng tuyệt vọng: Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa. ]Đó là tâm trạng trái ngược của một tâm hồn quá nhạy cảm và không có niềm tin, hi vọng trong cuộc sống. Đây cũng là tâm trạng chung của một lớp người đương thời. 3.Lòng yêu cuộc sống đến đô cuồng si: - Để khắc điều đó, thi sĩ đề ra lối sống gấp gáp, vội vàng: Sống hưởng thụ cái vui trong hiện tại. Mau đi thôi!Mùa chưa ngả chiều hôm. - Tình yêu cuồng nhiệt với cuộc sống với đời được thể hiện qua một loạt các động từ và tính từ mạnh:Ôm, riết, say, thâu, cắn; chếnh choáng, no nê, đã đầy, nhiều, -Nhịp thơ dồn dập ,sôi nổi hối hả ,cuồng nhiệt. - Điệp khúc ta muốn " khát vọng sống vô cùng táo bạo ,mãnh liệt. ]Đây là một quan niệm sống tích cực so với hoàn cảnh đất nước bấy giờ. 5 Hoạt động 3: Hướng dẫn học sinh tổng kết. GV: Yêu cầu học sinh dựa vào ghi nhớ SGK tổng kết. Hoạt động 3: Đọc kĩ phần ghi nhớ SGK. III. Tổng kết. Bài thơ nổi bật lên tư tưởng nhân văn: Lòng yêu đời, yêu cảnh vật, yêu tuổi trẻ, yêu mùa xuân, là thái độ sống nồng nhiệt, thích sống, thèm sống của Xuân Diệu. Tư tưởng đó được thể hiện qua giọng điệu thơ sôi nổi, nhịp thơ hăm hở và những từ ngữ, hình ảnh táo bạo đầy cảm giác. 3.Cuûng coá: *Thấy được quan niệm sống tích cực của Xuân Diệu. 4. Daën doø -Học bài, học thuộc bài thơ. - Soạn bài Thao tác lập luận bác bỏ.Phân Tích Bài Thơ Vội Vàng
– Đại từ nhân xưng “tôi” xuất hiện từ đầu với tư thế dõng dạc, đường hoàng, tuyên xưng khát vọng của mình qua đại từ “muốn”. “Muốn” đồng nghĩa với “mong”, “ước”, nhưng sắc thái chủ động hơn.
– Các động từ “tắt năng”, “buộc gió” cho ta rõ hơn niềm khát khao của Xuân Diệu, thi sĩ muốn can dự vào công việc của tạo hóa ð nên đây là khát vọng thực táo bạo.
– Đoạn thơ còn thể hiện quan điểm thẩm mĩ mới mẻ và độc đáo: với việc bày ra một bữa tiệc nơi khu vườn tình ái, Xuân Diệu đã gián tiếp trả lời cho 2 câu hỏi: “Cái đẹp có ở đâu?” và “Thế nào là chuẩn mực của cái đẹp?”
o Điệp từ “Cái đẹp có ở đâu?”: “này đây” xuất hiện 5 lần. Đây là từ chỉ định, nó không chỉ gợi ra sự sung mãn, tràn trề, phong phú, dồi dào của cảnh vật, mà quan trọng hơn, nó cho ta biết khoảng cách giữa thi sĩ và cái đẹp: gần, rất gần, ngay bên cạnh, tưởng chừng chỉ cần chạm tay là tới. Cái đẹp luôn mời gọi đầy quyến rũ, giữa cõi trần này, quanh chúng ta.
o Điều này thể hiện rõ qua các phép so sánh đầy biểu cảm và làm nên phong cách Xuân Diệu, tiêu biểu nhất là câu: “Chuẩn mực của cái đẹp là gì?”: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Trước Xuân Diệu, trong nền thơ ca truyền thống Việt Nam, rất chuộng lối nói: “Người ta là hoa đất”; “Miệng cười như thể hoa ngâu/ Cái khăn đội đầu như thể hoa sen”; “Làn thu thủy, nét xuân sơn”;… Nghĩa là cái đẹp của thiên nhiên luôn là chuẩn mực cho cái đẹp của con người. Đến Xuân Diệu, tháng Giêng – thiên nhiên lại được đem so sánh với một cặp môi gần của người thiếu nữ. Đây là sự đảo chiều ngoạn mục trong tư duy. Với Xuân Diệu, cùng là chuẩn mực cái đẹp, là chuẩn mực của vũ trụ, nhưng không phải là cùng trong tuổi trẻ, trong tình yêu. “Cặp môi gần” có lẽ là đôi môi gợi cảm, quyến rũ của người con gái.
– Sáng tạo nghệ thuật của Xuân Diệu: Đoạn thơ còn thể hiện rõ những cách tân giữa các yếu tố nghệ thuật, tiêu biểu nhất là ảnh hưởng của ông với lối thơ tượng trưng Pháp ð câu thơ là sự huy động, kích thích nhiều giác quan, có những câu là sự trộn, chuyển kênh liên tục giữa các giác quan. Tiêu biểu nhất: “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. “Tháng Giêng” là khái niệm thời gian, thuộc nhận thức trừu tượng, đã được Xuân Diệu cụ thể hóa thành ấn tượng của vị giác: “ngon”. Sau đó lại chuyển sang thị giác: “cặp môi gần”. Như vậy, tháng Giêng vừa quyến rũ, ngọt ngào, tựa thứ trái chín, lại có sự say đắm quyến rũ của một cô gái đẹp. Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng thấy Xuân Diệu yêu thương, tha thiết, nồng nàn với tháng Giêng.
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già, Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất. Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật, Không cho dài thời trẻ của nhân gian, Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn, . Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi, Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời; Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt… Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
cú sốc về tiết tấu và nó là bản lề của tâm trạng. Trước dấu chấm là đỉnh cao của cảm xúc, là dào dạt, rộn ràng, đam mê. Sau dấu chấm, “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa” : Dấu chấm đột ngột xuất hiện giữa dòng thơ tạo bước chuyển (khúc ngoặt) “vội vàng một nửa”. Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong toàn bài, hai chữ “vội vàng” được láy lại từ nhan đề. Vội vàng chính là mẫn cảm về thời gian. Cái thú vị là hai chữ “một nửa” trạng thái tinh thần của Xuân Diệu: vừa đam mê, vừa đau khổ, vừa bắt đầu đã lo đến khi kết thúc, tình vừa non đã thấy sắp già rồi, vừa ở giữa khu vườn tình ái, thoắt cái đã thấy mình lạc lõng ở hoang mạc cô liêu.
– . Xuân Diệu sử dụng cấu trúc thơ theo lối định nghĩa với từ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã đồng nhất 2 vế “đương tới” và Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già” “đương qua”, “non” và “già”. Về bản chất, đây là cái nhìn thời gian tuyến tính một đi không trở lại: “Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt”. Đây là quan niệm mới mẻ, tiến bộ của Xuân Diệu về thời gian. Trước thời Thơ Mới, thi nhân Việt Nam thường có cái nhìn bình thản, an nhiên trước vũ trụ; bởi lẽ, với họ thời gian là tuần hoàn, có tính luân hồi, xuân năm nay qua đi, xuân năm sau sẽ tới:
(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác Thiền Sư)
(Có bệnh bảo mọi người – Mãn Giác Thiền Sư)
ð Quan niệm của Xuân Diệu là quan niệm tích cực, nó cảnh tỉnh con người nên sống có ý nghĩa từng giây, từng phút. ( Không ai tăm hai lần trên một dòng sông).
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi, Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt… Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc, Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi? Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi, Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa? Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”
– Quan niệm về mối quan hệ giữa tôi với thời gian: “Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi”. Câu thơ khắc họa sự tương phản gay gắt giữa cái tôi cá nhân, cái tôi đời người với thời gian, vũ trụ, trời đất. Thời gian thì vô hạn, đời người là hữu hạn, do đó, Xuân Diệu phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của một cái tôi, của cái đẹp: “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Hệ quả của điều ấy là cảm thức về sự chia ly, chia phôi. Mỗi khoảnh khắc đều đang diễn ra sự chia ly, lời tiễn biệt triền miên, bao trùm từ sông núi đến tháng năm, từ ngọn gió đến cánh chim:
“Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi”: đây có thể xem là câu thơ hay nhất của Xuân Diệu về thời gian. Quả thực, Xuân Diệu là người bị ám ảnh về thời gian. Xuân Diệu sử dụng tất cả các giác quan để cảm nhận thời gian: khứu giác, thị giác, vị giác, cảm giác. Dù bằng giác quan nào thì đáp án cuối cùng là chia phôi, nghĩa là thời gian một đi không trở lại.
” Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn; Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi; – Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
– Đoạn thơ mở đầu bằng một thái độ lựa chọn dứt khoát, quyết liệt: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”. Câu thơ là lời giục giã. Đây là giọng thường trực trong thơ Xuân Diệu:
– 9 dòng thơ còn lại là sự hiện thực hóa cái quyết tâm, lời giục giã ở trên.
o 3 chữ “Ta muốn ôm” đửng riêng một dòng thơ và đặt chính giữa dòng cho thấy vị trí đặc biệt quan trọng của nó. Câu thơ giống một lời tuyên ngôn dõng dạc: từ cái “tôi” của thuở ban đầu đã trở thành “ta”. Với đại từ “ta”, dường như Xuân Diệu muốn lan tỏa, muốn truyền nhiệt sống đến cả những người xung quanh, để rồi liên tiếp phía sau là một chuỗi những dòng thơ trùng điệp về cấu trúc: bắt đầu bằng 2 chữ “ta muốn”, tâm điểm là 1 động từ, đối tượng của ta là những hình ảnh, sự vật được gợi tên bằng các cụm danh từ, động từ, tính từ.
o Nhìn vào hệ thống động từ, có thể thấy, chất Xuân Diệu rất đậm nét: ôm, riết, say, thâu, cắn. Đây đều là những động từ mạnh ở thể chủ động. Không chỉ diễn tả tâm trạng, các giác quan, mà chúng còn là những động từ chỉ sự yêu đương nồng nàn. Như vậy, Xuân Diệu không chỉ chiêm ngưỡng, ngắm nhìn, mà còn có khát khao, hành động chiếm lĩnh. Đọc đến đây, người ta có cảm giác Xuân Diệu giống như một người tình nhân tha thiết, đắm say, mà tình thương của chàng là mùa xuân, là thiên nhiên bất tận.
o Nếu ở những dòng thơ đầu, Xuân Diệu bày tỏ trước người đọc một bữa tiệc trần gian, thì đoạn này, một lần nữa, Xuân Diệu đưa người đọc thăng hoa khi lựa chọn những từ ngữ, hình ảnh: “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”, “mây đưa và gió lượn”, “cánh bướm với tình yêu”, “cái hôn nhiều”, “non nước”, “cây”, “cỏ”, “xuân hồng”. Bản thân những sự vật nhà thơ lựa chọn vốn đã rất đẹp, ông không ngừng gia tăng sức quyến rũ của chúng với động từ, tính từ để gợi tả vẻ đẹp non tơ, sự tươi trẻ.
o Đoạn thơ còn đầy ắp tính từ và thừa thãi liên từ “và”, “cho”:
Tất cả đẩy lên cao trào và kết thúc trong một lời hô gọi:
“Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.”
Phân Tích Bài Thơ Vội Vàng (Cực Hay)
Phân tích bài thơ Vội Vàng (cực hay)
Bài phân tích Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc số 2 Hướng dẫn phân tích:
Tuổi trẻ mỗi đời người chỉ có một, chính vì vậy, ai cũng phải biết trân trọng, sống hết mình với tuổi trẻ. ” Vội vàng ” là bài thơ độc đáo nhất, “mới nhất” của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập “Thơ Thơ” (1933-1938) – đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh một tài thơ thế kỉ.
… “Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn…”. Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…
Mỗi lần đọc những dòng thơ trên, nhạc điệu, vần điệu “Vội vàng” cứ ngân vang dào dạt mãi trong lòng ta, tình yêu đời, yêu sống như tát mãi không bao giờ vơi cạn… Cảm thức về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ… như những lớp sóng vỗ vào tâm hồn ta. “Vội vàng” là bài thơ độc đáo nhất, “mới nhất” của thi sĩ Xuân Diệu in trong tập “Thơ Thơ” (1933-1938) – đóa hoa đầu mùa đầy hương sắc làm rạng danh môt tài thơ thế kỉ.
Bài thơ ” Vội vàng ” nói lên nhịp điệu sống, khát vọng sống của tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Một đời người chỉ có một lần tuổi trẻ. Phải biết trân trọng, quý trọng và sống hết mình với tuổi trẻ, với mùa xuân và với thời gian.
“Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.
Trong “Tiểu dẫn” về bài thơ “Vội vàng” này Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh viết:
Thiên nhiên rất đẹp đầy hương sắc của hoa trên “đồng nội xanh rì”, của lá “cành tơ phơ phất”. “Tuần tháng mật” của ong bướm. “Khúc tình si” của yến anh. “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”. Chữ “này đây” được 5 lần nhắc lại diễn tả sự sống ngồn ngộn phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu. Vì lẽ đó nên phải vội vàng “tắt nắng đi” và “buộc gió lại”. Trong cái phi lí có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn.
Tuổi trẻ rất đẹp, rất đáng yêu. Bình minh là khoảnh khắc tươi đẹp nhất của một ngày, đó là lúc “thần vui hằng gõ cửa”. Tháng giêng là tháng khởi đầu của mùa xuân, “ngon như cặp môi gần”. Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa mới lạ vừa táo bạo. Chiếc môi ấy chắc là của giai nhân, của trinh nữ. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu.
“Tháng giêng ngon như cặp môi gần Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Chắc là Xuân Diệu viết bài thơ này trước năm 1938, lúc ông trên dưới 20 tuổi – cái tuổi thanh niên bừng sáng. Nhưng thi sĩ đã “vội vàng một nửa”, một cách nói rất thơ – chẳng cần đến tuổi trung niên (nắng hạ) mới luyến tiếc tuổi hoa niên. Dấu chấm giữa dòng thơ, rất mới, thơ cổ không hề có. Như một tuyên ngôn “vội vàng”:
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đương qua, Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. “Con gió xinh thì thào trong lá biếc Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi “Chẳng bao giờ / ôi / chẳng bao giờ nữa… Mau đi thôi / mùa chưa ngả chiều hôm”. -“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”. “Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm”. Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?” Không cho dài thời trẻ của nhân gian Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta muốn riết mây đưa và gió lượn “Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng Cho no nê thanh sắc của thời tươi Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người!”. Ta muốn say cánh bướm với tình yêu – “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” – “Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…” Ta muốn thâu trong mỗi cái hôn nhiều Và non nước, và cây và cỏ rạng”. Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại…”.
Vội vàng vì thiên nhiên quá đẹp, vì cuộc sống quá yêu, vì tuổi trẻ quá thơ mộng. Đang tuổi hoa niên mà đã “vội vàng một nửa”.. cảm thức của thi sĩ về thời gian, về mùa xuân, về tuổi trẻ rất hồn nhiên, mới mẻ.
Phân tích bài thơ Vội Vàng (cực hay)
Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Thời gian là vàng ngọc. Bóng ngả lưng ta. Thời gian vun vút thoi đưa, như bóng câu (tuấn mã) vút qua cửa sổ, như nước chảy qua cầu. Thời gian một đi không trở lại. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng: tương phản đối lập để chỉ ra cái “lượng trời” cho một đời người chỉ có một thời xuân xanh mà tuổi trẻ một đi qua không bao giờ trở lại:
Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối lập: tới – qua, non – già, rộng – chật, tuần hoàn – bất phục hoàn, vô hạn – hữu hạn – để khẳng định một chân lí – triết lí: tuổi xuân một đi không trở lại, phải quý tuổi xuân.
Cách nhìn nhận của thi nhân về thời gian cũng rất tinh tế độc đáo, nhạy cảm. Trong hiện tại đã bắt đầu có quá khứ và đã hé lộ mầm tương lai, cái đang có lại đang mất dần đi…
Và mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, nên phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cảm xúc lãng mạn dào dạt trong cái vị đời. Nói cảnh vật thiên nhiên mà là để nói về con người, nói về nhịp sống khẩn trương “vội vàng” của tạo vật. Với Xuân Diệu hầu như cuộc sống nơi “vườn trần” đều ít nhiều mang “bi kịch” về thời gian:
Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lí giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian:
Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa ngả chiều hôm”, nghĩa là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải hối hả. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:
(Bài số 3)
(Bài số 7)
Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về màu thơi gian, về sắc thời gian, về tuổi trẻ. Thật yêu đời, thật ham sống.
Mở đầu bài thơ là cái tôi hăm hở “tôi muốn tắt nắng đi”. Kết thúc bài thơ là “ta”, là mọi tuổi trẻ. Một sự hòa nhập và đồng điệu trong một đời người, trong dòng chảy thời gian: sống mãnh liệt, sống hết mình. Sống nồng nàn say mê. Nghệ thuật trùng điệp trong diễn tả gợi lên cái ham hố, yêu đời. Ngôn từ đậm màu sắc cảm giác, xúc giác, rạo rực: “Ta muốn ôm”, “Ta muốn riết… Ta muốn say… Ta muốn thâu…”:
Sống cũng là để yêu, yêu hết mình. Thơ hay vì màu sắc lãng mạn. Vì giọng thơ sôi nổi. Nghệ thuật “vắt dòng” với ba từ “và” đồng hiện trong một dòng thơ làm nổi bật cảm xúc. Say mê vồ vập cảnh đẹp, tình đẹp nơi vườn trần. Tất cả mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, xuân hồng… đều là nỗi niềm khao khát của thi nhân:
Sống vội vàng không có nghĩa là sống gấp, sống ích kỉ trong hưởng thụ. “Vội vàng” thể hiện một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Biết quý trọng thời gian, biết quý trọng tuổi trẻ, biết sống cũng là để yêu; tình yêu lứa đôi, tình yêu tạo vật. Tình cảm ấy đã thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ, cấp tiến. Bảy thập kỉ sau bài thơ “Vội vàng” ra đời, nhiều câu thơ của Xuân Diệu vẫn còn làm cho không ít người ngỡ ngàng! Xuân Diệu đã sống “Vội vàng” như vậy. Với hơn 50 tác phẩm, hơn 400 bài thơ tình, ông đã góp phần làm giàu đẹp cho nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Bài thơ “Vội vàng” cho thấy một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, rất nhân văn, một giọng thơ sôi nổi, dâng trào và lôi cuốn, hấp dẫn. Có chất xúc giác trong thơ. Có cách dùng từ rất bạo, cách cấu trúc câu thơ, đoạn thơ rất tài hoa. “Vội vàng” tiêu biểu nhất cho “Thơ mới”, thơ lãng mạn 1932-1941.
Nhà thơ Xuân Diệu đã đi vào thế giới vĩnh hằng những tao nhân mặc khách, nhưng ta vẫn cảm thấy ông đang hiện diện giữa cuộc đời và hát ca:
Phân tích bài thơ Vội Vàng (cực hay)
Bạn đang xem chủ đề Bài Thơ Vội Vàng Giáo Án trên website Anhngucongdong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!