Trích trong Thanh Hiên Thi Tập [清軒詩集]Nguyễn Lương Vỵ phỏng dịch thơ Việt
1. 瓊海元宵
QUỲNH HẢI NGUYÊN TIÊU Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên, Y y bất cải cựu thuyền quyên. Nhất thiên xuân hứng, thùy gia lạc, Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên. Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán, Bạch đầu đa hận tuế thì thiên. Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến, Hải giác thiên nhai tam thập niên.
RẰM THÁNG GIÊNG Ở QUỲNH HẢI
. Nguyên tiêu [元宵]: Gọi tắt của “nguyên tiêu tiết” [元宵節], đêm rằm tháng Giêng, dân gian Trung Quốc rước đèn, ăn bánh, múa sư tử, chơi trò câu đối. Cũng gọi là “đăng tiết” [燈節], “thượng nguyên tiết” [上元節]. . Thuyền quyên [嬋娟]: Nét đẹp đẽ dễ thương. Nói chung tả về người lẫn vật, nhưng thường nói riêng về phụ nữ. Ở đây chỉ mặt trăng. . Hồng Lĩnh [鴻嶺]:Tên một ngọn núi ở Nghệ Tĩnh. . Quỳnh Châu [瓊州] : Tức Quỳnh Hải, thuộc trấn Sơn Nam xưa, nay là huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, quê vợ của Nguyễn Du. Năm 1786, sau khi Nguyễn Khản thất lộc, Nguyễn Du lánh nạn về Quỳnh Côi ở nhà anh vợ là Đoàn Nguyên Tuấn ở xã Hải An (lúc này Lê Chiêu Thống chưa chạy sang Trung Quốc). . Tam thập niên [三十年]: Câu này có người cắt nghĩa là: “Ở nơi góc biển chân trời ba chục năm.” Giải nghĩa như thế e không đúng, vì Nguyễn Du lúc đến Quỳnh Châu lánh nạn, tuổi đời mới trên hai mươi (sinh năm 1765, đậu tam trường năm 1784, chạy giặc năm 1786 và lênh đênh nơi quê vợ trên dưới 10 năm). Như vậy, “tam thập niên” hàm nghĩa là ba chục tuổi mới hợp lý.
Phỏng dịch thơ Việt: RẰM THÁNG GIÊNG Ở QUỲNH HẢI
2. 春日偶興
XUÂN NHẬT NGẪU HỨNG
NGẪU HỨNG NGÀY XUÂN
Bấy lâu nay khí trời xấu, không mở cửa, Dùng dằng hết mùa lạnh lại đến mùa nóng. Chốn tha hương, phải từ biệt người năm cũ, Chẳng hay Xuân từ đâu đến Quỳnh Hải, Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh bên bờ Nam, Chúa Xuân để lộ sinh ý trên cánh hoa mai lạnh. Có ông già hàng xóm, đi về phía miếu đầu thôn, Uống hết bầu rượu, ăn hai trái cam, đang say, không thấy trở về.
. Thuân tuần [逡巡]: Dùng dằng, do dự, lưỡng lự, rụt rè.
Phỏng dịch thơ Việt: NGẪU HỨNG NGÀY XUÂN
3. 春夜
XUÂN DẠ Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm? Tiểu song khai xứ liễu âm âm. Giang hồ bệnh đáo kinh thì cửu, Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm. Kỳ lữ đa niên đăng hạ lệ, Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm. Nam Đài thôn ngoại Long giang thủy, Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kinh).
ĐÊM XUÂN
. Long giang [龍江]: Tức sông Lam, ở Nghệ Tĩnh. Sông Lam còn có tên là Thanh Long giang.
4. 暮春漫興
MỘ XUÂN MẠN HỨNG
CHIỀU XUÂN CẢM HỨNG
5. 清明偶興
THANH MINH NGẪU HỨNG
NGẪU HỨNG TRONG TIẾT THANH MINH
. Giang thành [江城]: Có thể là một địa danh nào đó mà Nguyễn Du thường nhắc đến trong thơ mình. . Chiến phạt thanh [戰伐聲]: Dấu tích chiến tranh giữa nhà Nguyễn với nhà Tây Sơn. . Mạc giao mao thảo cận giai sinh [莫敎茅草近階生](Chớ nên để cỏ tranh mọc gần thêm): Ngụ ý câu thơ nầy, tác giả tự nhủ mình không nên gần gũi đám quần thần nhà Nguyễn, dẫu mình đã miễn cưỡng ra làm quan.
Phỏng dịch thơ Việt: NGẪU HỨNG TRONG TIẾT THANH MINH
6. 春宵旅次
XUÂN TIÊU LỮ THỨ Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần, Ám lý thiên kinh vật hậu tân. Trì thảo vị lan thiên lý mộng, Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân. Anh hùng tâm sự hoang trì sính, Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần. Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo, Đoàn Thành thành hạ nhất triêm cân.
ĐÊM XUÂN LỮ THỨ
. Trì thảo [池草] : Lấy từ câu thơ: ” Trì đương sinh xuân thảo” (Bờ ao sinh cỏ Xuân). Vào đời Tấn bên Tàu, Tạ Huệ Liên là em họ nhà thơ Tạ Linh Vận, mười tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường khen ngợi và nói với Huệ Liên: “Thế nào làm thơ cũng tìm được câu thơ hay.” Một hôm, Linh Vận ngồi ở bờ ao làm thơ, không nghĩ ra câu nào, về nhà nằm ngủ, chiêm bao thấy Huệ Liên, bỗng viết được câu thơ trên, lấy làm đắc ý. Câu thơ ngụ ý nhớ anh em ở nhà. . Đoàn Thành [團城]: Tức tỉnh thành Lạng Sơn. Có sách nói sở dĩ thành nầy có tên như vậy vì góc Tây Bắc của thành hình vòng tròn. Bài nầy Nguyễn Du làm từ mùa Xuân năm Giáp Tý (1805) khi nhà thơ đi đón sứ thần nhà Thanh. Nguyễn Du lên Lạng Sơn vào mùa Đông năm Quý Hợi (1804) nên mới có câu: ” Đình mai dĩ hoán nhất niên Xuân ” (Trước sân, cây mai lại qua một mùa Xuân nữa).