Top 11 # Giảng Bài Thơ Việt Bắc Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Bình Giảng Khổ Thơ Thứ 6 Trong Bài “Việt Bắc”

Việt Bắc của Tố Hữu:

Ta về mình có nhớ ta

……………………..

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Bình giảng đoạn thơ sau trong bàicủa Tố Hữu:

Bài làm

Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Giữa trăm nghìn tình cảm nhớ thương tha thiết ấy, tác giả đặc biệt dành những cảm xúc đẹp nhất cho cảnh và người Việt Bắc:

Ta về, mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

Ta về mình cố nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Câu hỏi tu từ mình có nhớ ta vừa là lời đối thoại vừa là cái câu nối xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng Người”. Từ xưa đến nay, trong văn chương nghê thuật, hoa và trăng là biểu tượng cho cái đẹp cua thiên nhiên tạo vật. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Hoa ở bên người để người mang gương mặt sắc màu của hoa. Người bên hoa để cho hoa mang hồn người. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hoà đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu sáu dành cho nhớ hoa, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Đọc đoạn thơ trên, chúng ta có cảm giác đoạn thơ được tác giả viết không hề trau chuốt mà như cứ tuôn chảy từ một tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ về xuôi. Qua đây mà cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến khu Việt Bắc cứ lần lượt hiện lên có đủ bốn mùa trong năm, mỗi mùa có một màu sắc, âm thanh chủ đạo tạo thành một bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức.

Ở đây ta thấy bức tranh mùa đông hiện về với màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, có điểm những bông chuối đỏ tươi như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức.tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hoà, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến. “Đèo cao nắng ánh dao cài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc hoạ gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp loé trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hành và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trò thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Mùa đông qua đi thì mùa xuân lại về mang bao nhiêu điều tốt lành đến cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy.

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết cua hoa mơ nơ khắp rừng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng”, “trắng rừng” được viết theo phép đổi trật tự cú pháp và từ trắng được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Điều đó chứng tỏ đây là những giờ phút hoa mơ nở rộ nhất:

Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt (41)

Tráng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng, con chim hót

Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ

(Tố Hữu)

Nổi bật trên cái nền của hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công “nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Bức tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối, màu xanh ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu vàng rực của rừng phách đang đổ “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu vàng nhưng nhiều và đậm hơn gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; mà trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cùng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát.

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát an tình thuỷ chung

“Trăng rọi hoà bình” là ánh tráng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng đi qua những tháng ngày “mưa bom bão đạn”, đi qua bao đêm “vầng trăng” cũng “quầng lên một vầng lửa máu”, thì mới thấy hết sự xúc động của lòng người trong những đêm trăng hoà bình đó. Vì vậy tả cảnh trăng rừng mà không thấy vắng lặng, lanh lẽo; mà trái lại đã gợi lên không khí rạo rực đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng ấy, đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thuỷ chung của ai đó càng làm cho ánh trăng như sáng hơn và cùng lung linh, thắm đượm tình người Việt Bắc hơn.

Đây là đoạn thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ hay nhất trong bài Việt Bắc. Đoạn thơ cũng thể hiện rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình sâu lắng, tha thiết ân tình và mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao, nhịp nhàng, uyển chuyển; câu nọ gọi câu kia, ý nọ gọi ý kia cứ tuôn trào lên dào dạt cảm xúc qua cách xưng hô Mình – Ta, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết tình nghĩa. Nhạc điệu dịu dàng trầm bổng khiến cho cả đoạn thơ mang to hưởng bâng khuâng êm ái như một khúc hát ru kỷ niệm. Đặc biệt từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ cứ tâng dần làm cụ thể hơn tấm lòng của người ra đi đôi với cảnh và người Việt Bắc.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hoà hợp vói nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gùi, thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Bình Giảng Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu

Bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu được xem là bài thơ hay nhất với những lời thơ nhẹ nhàng như câu ca nhưng lại thấm đẫm tình cảm của người lính đối với chiến khu Việt Bắc thời kháng chiến.

Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hòa quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ 1 cách mạng.

Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tư tình cảm của người cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi:

Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình:

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng B (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diền tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Vả lại hoa và người hòa quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể không nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp gần gũi.

Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình(xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội họa cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hòa một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn.

Bức tranh thứ nhất:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ (Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa – Nguyễn Du) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan tỏa. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người:

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyền động- Thơ ca là nghệ thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế.

Bức tranh thứ hai:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Khác bức. tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian:

Ngày xuân mở nở trắng rừng.

Cách điệp âm (mơ / nở; trắng / rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánhí dể diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên.

Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt động có vẻ tỉ mỉ:

Người đan nón chuốt từng sợi giang.

Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng diệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc. Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ mùa xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng”. Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuồi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhật, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm.

Bức tranh thứ ba:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Câu thơ mở đầu bằng âm thanh (ve kêu), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thì đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ây hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình.

Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hừu hòa quyện, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hòa đó. Và chính sự hài hòa đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trứng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực.

Bức tranh thứ tư:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên:

Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn:

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung

Không gian mênh mông chẳng khác gì cảnh thu huyền ảo của thơ mới:

Xuống rừng nẻo thuộc nghìn thu mới về.

Trời thu nhuộm ánh tà dương

Gió thu trong quãng canh trường nỉ non.

Trăng thu soi bóng cô thôn,

Hỏi người lữ thứ mộng hồn về đâu?

(Hằng Phương)

Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hòa bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng.

Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc dời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát như thế.

Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, người ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi dẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ (5 từ) trong một thơ như là sư nối dài của lòng hoài niệm không dứt.

Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm.

Bài 2. Bài văn của em Hoàng Thị Như đã bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu: Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết ” Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.

Bình giảng bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người.Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa,vừa cổ điển vừa hiện đại.Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tịn mùi hương

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – ” đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do ” Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về im lặng con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động ” chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây Phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung lunh dịu mát:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình dọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Việc quân đang bận xin chờ hôm sau

Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu

Ấy tin thắng trận liên khu báo về

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Nguồn: chúng tôi

Phân Tích Vẻ Đẹp Của Núi Rừng Việt Bắc Qua Bài Thơ Việt Bắc

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ Cách mạng và kháng chiến thế kỉ 20. Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được ông gió gọn trong 8 câu thơ:

……..

Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ thương, là tình cảm ân tình thủy chung của người ra đi đối với chiến khu Việt Bắc:

Cách sử dụng các đại từ nhân xưng ” ta” – ” mình” vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Mượn lời ví von của dân gian, Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo mang một nội dung mới mẻ hiện đại. Chỉ riêng trong hai câu thơ đầu, đại từ “ta” xưng hô đến bốn lần tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Nó bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ, của người ra đi đối với người ở lại. Tình cảm này hết sức chân thành, thiết tha, có sức lôi cuốn mạnh mẽ và tạo nên được đồng vọng, sẻ chia với người đọc.

Nỗi nhớ Việt Bắc của nhà thơ, người về xuôi đã được Tố Hữu biểu hiện hết sức cụ thể, phong phú. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã sử dụng 34 lần từ “nhớ” (biện pháp điệp từ) để làm nổi rõ tấm lòng ân nghĩa thủy chung, thương nhớ đối với chiến khu Việt Bắc. Từ “nhớ” được tác giả nhắc đến với nhiều ý nghĩa phong phú. Có khi diễn tả nổi nhớ như “nhớ gì như nhớ người yêu”. Cũng có lúc từ “nhớ” được sử dụng với hàm ý là nhớ lại “nhớ khi giặc đến giặc lùng”, …

Ngay trong đoạn thơ trích chỉ có 10 câu thì đã tới 5 lần từ “nhớ” được nhắc đến. Nào là “mình có nhớ ta”, “nhớ những hoa cùng người”, “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, “nhớ ai tiếng hát”. Tất cả từ “nhớ” ở đoạn thơ này đều bao trùm hàm ý nhớ thương. Nỗi nhớ cứ tăng dần lên với nhiều biểu hiện và sắc thái khác nhau. Khi thì nhớ về một đối tượng cụ thể, xác định:

– “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi lại hướng về một đối tượng mơ hồ:

– Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Mặc dù sắc thái và cung bậc có khác nhau song nỗi nhớ của nhà thơ bao giờ cũng hướng về những con người lao động cân cù, chất phác với một lòng một dạ thủy chung, sắc son với Cách mạng.

Mỗi cặp thơ là một nỗi nhớ da diết cháy bỏng của nhà thơ. Nỗi nhớ cảnh và nhớ người như đan xen hòa quyện với nhau trong bốn cặp thơ lục bát. Nếu câu 6 dành cho nỗi nhớ cảnh thì câu 8 thì diễn tả nỗi nhớ con người. Cảnh và người trong mỗi cặp thơ lại mang những đặc điểm sắc thái riêng. Cứ như thế, đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh phong cảnh thiên nhiên đa dạng về nghệ thuật màu sắc, ánh sáng và âm thanh dần hiện ra trước mắt người đọc. Nét hài hòa của nhịp thơ và hình ảnh gợi lên ở người đọc những cảm xúc và rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ nên thơ, vừa mênh mông man mác.

Phong cảnh thiên nhiên mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh thiên nhiên rừng núi Việt Bắc. Búc tranh thiên nhiên hiện lên tự nhiên mà đẹp và nên thơ một cách tinh tế. Tố Hữu đã làm hiện rõ cảnh sắc riêng của bốn mùa trong năm một cách tài tình chỉ bằng những cặp lục bát ngắn ngủi mà đầy đủ. Việt Bắc được ghi nhận theo dòng chảy của thời gian vĩnh hằng.

Đó là cảnh mùa đông với:

Mùa đông hiện lên với sắc đỏ của hoa chuối rừng giữa đại ngàn. Trên nền xanh bất tận của muôn cây, hoa chuối rừng kiêu hãnh khoe sắc dỏ thắm tươi. Cái màu ấn tượng ấy dù đứng từ rất xa cũng có thể nhìn thấy được. Nó tập trung và thu hút cái nhìn của người đọc. Bởi nhìn từ từ rát xa nên mới có thể thấy ánh sáng phản chiếu chiếc “dao cài thắt lưng” của người đi rừng. Ánh sáng lấp lóe, bất chợt và đột nhưng rất rõ ràng.

Bức tranh mùa đông Việt Bắc không hề hiu hắt, tàn tạ như cái vốn có của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, nó cuồn cuộn sức sống. Nó rực rỡ sắc màu và tràn trề niềm tin. Thiên nhiên đã tươi xanh, con người cũng mạnh mẽ kiên cường.

Tiếp đến, hình ảnh mùa xuân hiện ra với sắc trắng của hoa mơ trắng ngút ngàn:

Hoa mơ trắng vốn là một nét đẹp chỉ có ở núi rừng Việt Bắc. Ngày xuân, rừng mơ buông hoa trắng xóa cả núi rừng, tạo nên cảnh sắc thật kì vĩ. Những dải màu trắng hoa mơ kéo dài bất tận, như chiếc khăn mềm mại vắt ngang ngọn núi. Hình ảnh con người hiện lên trong tư thế lao động. Đôi bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang tỉ mỉ và cẩn trọng. Bức tranh mùa xuân tươi mát, trong sạch như tình người cán bộ son sắt, thủy chung với núi rừng, với nhân dân Việt Bắc.

Mùa hạ hiện ra với âm thanh réo rắt của tiếng ve rừng:

Tiếng ve rừng là âm thanh sống động nhất của núi rừng Việt Bắc. Không phải là tiếng kêu đơn lẻ lạc điệu của một vài chú ve. Đó là một bản đồng ca xáo động, dữ dội và rộn vang. Người nghệ sĩ của rừng cây tấu lên những khúc nhạc rộn ràng, âm vang đất trời. Có lúc im bặt rồi bất ngờ cất lên ầm ĩ. Tiếng ve hòa trong sắc vàng của rừng phách. Ve kêu cũng là lúc rừng cây phách đổ vàng. Bức tranh mùa hạ núi rừng Việt Bắc thay màu mới.

Hiện lên trong bức tranh là hình ảnh cô gái yêu kiều một mình hái măng giữa rừng. Cô hòa mình với thiên nhiên vĩ đại. Cô vui vẻ tìm kiếm những phẩm vật quý giá của rừng xanh. Dường như, cô cũng đang hân hoan ca hát cùng những chú ve, lòng rộn ràng trong bản tình ca đắm say bất tận.

Cuối cùng, hình ảnh mùa thu đọng lại với ánh trăng rừng huyền diệu và khát vọng hòa bình thiết tha:

Ánh trăng thu mở ra bức tranh mở ảo. Thật không thể nói hết vẻ đẹp của đêm trăng chốn đại ngàn. Trong bóng tối bao la và sự vắng lặng của vũ trụ, ánh trăng là nguồn sáng thu hút hồn ta, tưới tắm hồn ta tình yêu cái đẹp và tình yêu cuocj sống. Từ bào đời nay, trăng luôn là biểu tượng của cuộc sống yên bình và tươi đẹp. Trăng kết nối hồn ta với đất trời, kết nối người đi kẻ ở. Trăng luyến lưu đưa tiễn và cũng gợi nhớ kí ức xa xăm. Khi tất cả đã xa rời, trang chính là nguồn ánh sáng kì điệu đưa ta trở về.

Tố Hữu đã rất thành công khi sử dụng thể thơ lục bát mềm mại, nhuần nhuyễn một cách điêu luyện. Các câu thơ nhịp nhàng, cân đối, hài hòa đến tuyệt vời. Hình ảnh thơ được chọn lọc kĩ càng, biểu đạt sâu sắc vẻ đẹp thơ mộng của con người và thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình, thủy chung.

Đoạn thơ là sự hòa quyện tuyệt vời giữa âm thanh, sắc màu và hình ảnh tạo nên một bức tranh núi rừng hết sức tráng lệ, kì vĩ. Hình ảnh con người được khác họa tinh tế và đẹp đẽ. Tuy nhỏ bé nhưng không hề bị chìm lấp giữa núi rừng bạt ngàn. Con người là điểm nhấn, điểm tô cho bức tranh thêm sinh động. Tuy nhiên, sự thành công không chỉ ở nghệ thuật ngôn từ mà chính là tấm lòng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.

Đây là đoạn thơ đẹp và hay. Đoạn thơ có cấu trúc hài hòa, cân đối, có giá trị tạo hình mang nhiều sắc thái biểu cảm và thể hiện cảm xúc chân thành nhất, sâu lắng nhất của nhà thơ Tố Hữu đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc

I. Bình giảng về Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc

1. Nhà thơ Tố Hữu

Xuân Diệu đã từng nhận xét “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Thật vậy! Thơ Tố Hữu là tiếng lòng ngân vang của một lí tưởng cộng sản, của cách mạng, của non sông gấm vóc. Bởi thế, các sáng tác của Tố Hữu như một “cuốn biên niên sử bằng thơ” song hành với những biến cố lịch sử của dân tộc. Việt Bắc là một trong những bài thơ như thế.

2. Bài thơ Việt Bắc

Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh trọng đại, thiêng liêng của đất nước. Tháng 7 năm 1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được ký kết, hòa bình lập lại, miền Bắc được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội. Trong cuộc chia tay với mảnh đất chiến khu đầy ắp ân tình và kỷ niệm, Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc để cất lên tiếng ca đằm thắm về đạo lý thủy chung, nghĩa tình của dân tộc.

II. Nội dung bài thơ Việt Bắc

1. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 1

Câu thơ mở đầu đọc lên, ta nghe thấy tâm tình của lời ca dao yêu thương, tình tứ:

“Mình về có nhớ ta chăngTa về ta nhớ hàm răng mình cười”

Sau bao nhiêu năm chung sống ở mảnh đất Việt Bắc, sống trong tình quân dân chan hòa nồng thắm thế mà nay những chiến sĩ đành phải cất bước ra đi. Mảnh đất gắn bó như thế này bây giờ cũng phải chia tay. Cặp xưng hô “mình-ta” thể hiện sự gần gũi thân thiết của cán bộ và người dân. Cái tình cảm ấy giống như những người thân trong gia đình mình vậy.

Tuy nhiên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này một cách kỹ càng ta lại nhận ra tình nghĩa cách mạng dạt dào trong thơ Tố Hữu. Việt Bắc là quê hương, là cội nguồn kháng chiến, là nơi che chở cưu mang cho Đảng và chính phủ trong suốt những năm dài chiến đấu gian khổ. Bốn câu thơ đầu vang lên với hai câu hỏi dồn dập như nỗi niềm trăn trở khôn nguôi của người ở lại. Một câu hỏi về thời gian kháng chiến gian lao mà anh dũng, một câu hỏi về không gian xa xôi mà đầy ắp ân tình.

2. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 2

Mười hai dòng lục bát tạo thành sáu câu hỏi như khơi sâu vào những kỷ niệm kháng chiến. Hình ảnh mưa nguồn, suối lũ, mây mù gợi về 1 thiên nhiên dữ dội, khắc nghiệt của Việt Bắc trong những cả nước chung sức, chung lòng đấu tranh. Biết bao ân tình của nhân dân Việt Bắc đã dành cho cán bộ cách mạng, vì thế mà người ở lại đã cất lên những câu hỏi da diết cho người ra đi.

Phân tích bài thơ Việt Bắc 20 câu đầu ta mới thấy Tố Hữu đã sử dụng hai hình ảnh đối xứng, “miếng cơm chấm muối” và “”mối thù nặng vai”” để hình dung niềm căm thù quân cướp nước như có hình, có khối đè trĩu trên vai. Hình ảnh nhân hóa “rừng núi nhớ ai” và hai đại từ phiếm chỉ “ai” khiến câu thơ trở nên tình tứ, thiết tha. Mình về miền xuôi, núi rừng cũng trở nên trống vắng, bâng khuâng. Những sản vật quen thuộc của Việt Bắc như trám bùi, măng mai hòa cùng tâm trạng con người để diễn tả thấm thía nỗi cô đơn, hẫng hụt của người ở lại. Không chỉ nhắc lại quá khứ mà tác giả còn khẳng định lòng thủy chung, son sắt. Nếu Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền” thì các cán bộ kháng chiến về xuôi có còn nhớ những kỷ niệm của một thời kháng chiến.

Mình về còn nhớ núi nonNhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Câu thơ như nhắc nhở người đi hãy nhớ về núi rừng Việt Bắc nơi căn cứ địa kháng chiến cùng với hai sự kiện lịch sử “khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh”. Đây là phong trào lớn mạnh đã tạo nên chiến thắng của Cách mạng tháng Tám và tiền đề cho những thắng lợi kháng Pháp sau này:

Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm. Câu thơ sáu chữ có đến 3 từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ “mình” thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, “mình” là Việt Bắc, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai, thì câu thơ mang hàm ý: cán bộ về xuôi, có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không? Thay “ta” bằng “mình” để chỉ người Việt Bắc là Tố Hữu muốn nhấn mạnh: “ta” và “mình” đã hòa vào nhau. Dù kẻ ở, hay người đi đều cùng một tâm trạng buồn nhớ như nhau.

Ở nghĩa đẹp hơn, “mình” chính là cán bộ về xuôi – đại từ nhân xưng ngôi thứ 1 – khiến cho câu thơ được hiểu theo nghĩa: Cán bộ về xuôi, có còn nhớ chính mình – nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, mà phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 2 ra ta mới thấy được triết lý sâu sắc trong câu thơ này.

Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa. Cây đa Tân Trào gợi nhắc sự kiện lịch sử ngày 22/12/1944 khi đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ xuất quân cho đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân; mái Hồng Thái gợi nhắc những cuộc họp quan trọng mang tầm chiến lược đi đến sự thắng lợi của Cách mạng.

Hai câu thơ như lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách mạng hay không? Khơi dậy một quá vãng đầy kỷ niệm, cay đắng, ngọt bùi, đồng thời muốn khẳng định với người ra đi một điều: Nét đẹp cao quý của Việt Bắc chính là ở chỗ nghèo khổ mà chân tình rộng mở, sắt son thủy chung với Cách mạng, người cũng vậy mà thiên nhiên cũng vậy.

3. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ 3

Trước những lời chia tay thương nhớ thiết tha ấy, người chiến sĩ cách mạng cũng như trải lòng mình nói lên những tâm tư tình cảm gắn bó

“- Ta với mình, mình với taLòng ta sau trước mặn mà đinh ninhMình đi, mình lại nhớ mìnhNguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Lời thề nguyền vang lên rắn rỏi, cương quyết mà đầy ắp nghĩa tình. Nếu nước trong nguồn không bao giờ vơi cạn thì ân nghĩa của nhân dân Việt Bắc luôn được người đi khắc cốt ghi tâm. Dù ta có trở về nơi phố phường hoa lệ nhưng một mảnh đời ta đã để lại nơi núi rừng Việt Bắc. Vì thế, Việt Bắc chính là một phần tâm hồn, một phần máu thịt của ta.

Nỗi nhớ của người ra đi với một loạt những hình ảnh về thiên nhiên Việt Bắc mơ mộng sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn 3:

Nhớ gì như nhớ người yêuTrăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nươngNhớ từng bản khói cùng sươngSớm khuya bếp lửa người thương đi về.Nhớ từng rừng nứa bờ treNgòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy”

Thiên nhiên Việt Bắc vừa đơn sơ, vừa thơ mộng với ánh trăng trên đầu núi, nắng chiều trên nương rẫy. Có thể thấy rằng, nỗi nhớ của người ra đi cứ trải dài mênh mang trong không gian, trải dài triền miên theo thời gian và đi sâu vào tiềm thức của con người. Nỗi nhớ ấy gợi bao yêu thương, chia sẻ:

“Ta đi, ta nhớ những ngàyMình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…Thương nhau, chia củ sắn lùiBát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng

Sắn bùi, chăn sui là những hình ảnh quen thuộc, bình dị của cuộc sống chiến khu, đi liền về sự sẻ chia, đùm bọc. Dù sau này người đi có thưởng thức những cao lương mĩ vị chốn thành thị nhưng chắc hẳn chẳng thể nào quên củ sắn chia đôi, bát cơm sẻ nửa trong những ngày tháng gian nan, thiếu thốn. Trong những kỉ niệm về Việt Bắc, cán bộ cách mạng đã dành cho người mẹ nơi đây một tình cảm thật đậm sâu, tha thiết:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưngÐịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ, không quản nắng cháy, mưa sa, mẹ vẫn cặm cụi địu con lên rẫy bẻ ngô nuôi cán bộ. Mẹ chắt chiu, gom góp công sức nhỏ bé của mình vào cuộc kháng chiến lớn lao của dân tộc. Bà mẹ Việt Bắc gợi liên tưởng đến bà mẹ Tà Ôi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm.

4. Phân tích bài thơ Việt Bắc bức tranh tứ bình

Trong hoài niệm về những năm tháng kháng chiến ở Việt Bắc, tác giả đã dành cho cảnh và người nơi đây một nỗi nhớ rất riêng:

Đoạn thơ gồm 10 câu chia làm hai phần. Hai câu thơ đầu tiên như một lối nói đưa đẩy, giao duyên trong ca dao. Giọng thơ êm ái, nhẹ nhàng, tiếp nối mạch đối đáp giao duyên giã bạn, nhân vật trữ tình “ta” đã đối thoại với “mình”. Câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ làm cho lời thơ vừa là đối thoại nhưng cũng là một gạch nối để “ta” bày tỏ nỗi lòng. Không đợi cho “mình” trả lời, nhân vật “ta” tiếp tục xác định nỗi nhớ của mình: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa và người là nhớ tới thiên nhiên tươi đẹp của Việt Bắc, nhớ tới những con người Việt Bắc cần cù đã từng cưu mang gắn bó với kháng chiến.

Bức tranh tứ bình hiện ra sau khi ta phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này với màu xanh bát ngát của rừng già. Trên không gian lạnh lẽo, bạt ngàn thăm thẳm ấy là những đuốc lửa đốt lên ấm áp của sắc hoa chuối rừng. Cảnh vật Việt Bắc không còn hoang lạnh mà đẹp như một bức tranh. Sắc đỏ của hoa chuối rừng như thắp lên niềm tin yêu và trở thành điểm nhớ lung linh trong lòng người về xuôi. Giữa vẻ đẹp của sắc màu, hoa lá, hiện lên con người lao động làm chủ núi rừng. Con người đứng hiên ngang trên đỉnh đèo cao, ánh nắng chiếu vào dao gài thắt lưng tạo nên một sự phản quang lấp lánh. Câu thơ cho thấy sự khỏe khoắn, vững chãi của người dân Việt Bắc.

5. Phân tích bài thơ Việt Bắc khổ cuối

Liền một mạch thơ là hình ảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, hào hùng, sôi động với hình ảnh những đoàn bộ đội dân công nao nức trên các nẻo đường:

Đó là cảnh hành quân của những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc. Tất cả đồng lòng như một. “Ánh sao” để chỉ người chiến sĩ còn “mũ nan” chính là những người dân quân Việt Bắc. Cả hai cùng đồng lòng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Những đoàn dân quân với những ngọn đuốc trên tay như soi sáng cả bầu trời Việt Bắc. Ngọn đuốc ấy như một lý tưởng quyết tâm chiến đấu để bảo vệ đất nước đánh đuổi kẻ thù. Khí thế của tất thảy với sức mạnh giống như là “nát đá”. Nghìn đêm nhân dân ta phải sống trong cảnh khó khăn vất vả. Thế rồi hình ảnh “đèn pha” bật sáng như thể hiện một niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Họ đã sống trong khốn khổ để bật phá rũ bùn đứng dậy đấu tranh vì một niềm tin vào tự do hạnh phúc. Và sau bao nhiêu khổ cực khó khăn, nhân dân ta đã giành được chiến thắng. Tin vui ấy lan rộng khắp từ Hòa Bình, đến Tây Bắc và Điện Biên…

Khác với những giai điệu tình nghĩa, mượt mà ở đoạn trên, phân tích bài thơ Việt Bắc đoạn này ta thấy được một bức tranh sử thi hoành tráng, ngợi ca sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và nhân dân anh hùng. Thể thơ lục bát được thể hiện linh hoạt, giọng điệu sôi nổi, dào dạt đã tạo nên một khúc ca anh hùng tràn đầy cảm hứng tự hào về cuộc kháng chiến của dân tộc.

Kết thúc đoạn thơ, một lần nữa nhà thơ khẳng định ý nghĩa của Việt Bắc, chiếc nôi của cách mạng trong suốt chặng đường kháng chiến gian lao. Việt Bắc là nơi chở che, cưu mang, là nơi thắm thiết nghĩa tình. Với thể thơ lục bát uyển chuyển, linh hoạt, giọng điệu tâm tình, sâu lắng, thiết tha, kết cấu đối đáp “mình – ta” ngọt ngào, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, sau khi phân tích bài thơ Việt Bắc ta đã thấy những năm tháng gian lao và anh hùng của dân tộc qua sự đằm thắm, yêu thương. Xuyên suốt những câu thơ của Tố Hữu là câu hỏi hướng về cội nguồn đạo lí. Việt Bắc xứng đáng là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Nguồn: chúng tôi