Top 5 # Hãy Chuyển Bài Thơ Đồng Chí Thành Câu Chuyện Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Hãy Chuyển Thể Bài Thơ Lượm Thành Một Câu Chuyện

Đề bài: Hãy chuyển thể bài thơ Lượm thành một câu chuyện

Chuyện về cậu bé thiếu niên Lượm dũng cảm đã hi sinh vì đất nước mãi là kỉ niệm không phai trong lòng người dân Việt Nam. Lần đó tôi có dịp vào Huế và vô cùng may mắn, tôi được nói chuyện với một người đồng đội của Lượm. Lúc đó Lượm làm liên lạc cho đơn vị Mang Cá của bác.

Nhắc đến Lượm, đôi mắt bác ánh lên niềm tự hào pha lẫn niềm tiếc thương một cậu bé vô cùng can đảm, anh hùng. Bác nhớ lại, ngày đó khi được phân công về công tác ở đồn Mang Cá, bác đã nghe mọi người hay nhắc đến cậu bé làm liên lạc rất gan dạ và anh dũng. Những lời nói đó đã khiến bác rất lưu tâm và muốn được gặp cậu bé. Hôm ấy, gặp một chú bé dáng nhỏ bé, nhanh nhẹn bác liền gọi lại và hỏi:

– Cháu bé, cháu được phân công làm nhiệm vụ gì? – Cháu làm liên lạc viên chú à. – Thế có phải tên cháu là Lượm không? – Dạ thưa chú cháu tên là Lượm. Sao chú biết ạ? – À ra vậy! Thế cháu có sợ nguy hiểm không?

Chú bé nhún vai lém lỉnh trả lời:

– Cháu không sợ chú ạ, cháu luôn nghĩ là làm thế nào để hoàn thành tốt nhiệm vụ. – Cháu có thích công việc này không? – Cháu thích hơn ở nhà ạ. – Chú chúc cháu luôn hoàn thành nhiệm vụ.

Chú bé bước đi thoăn thoắt, đầu nghênh nghênh, trông rất đáng yêu, và trông chú càng đáng yêu hơn, ngộ nghĩnh hơn khi trên đầu đội chiếc mũ canô với chiếc sắc đeo bên hông. Chú bé chào tôi rất nhanh và khuất dần chỉ còn tiếng huýt sáo rộn vang. Sau lần gặp gỡ đó, do bận nhiều công việc tôi quên cũng không có dịp gặp lại cậu bé. Cho đến một hôm, trở về đơn vị tôi, nhìn mặt ai tôi thấy cũng có vẻ buồn buồn, một đồng chí hỏi tôi:

– Đồng chí có nhớ cháu Lượm không, cậu bé liên lạc đó? – Có! Tôi nhớ. Xảy ra chuyện gì hả đồng chí? – Cậu bé hi sinh rồi, hôm đó, Lượm nhận nhiệm vụ đem công văn đi, mọi người đều cảnh báo với chú rằng đó là quãng đường rất nguy hiểm, có thể gặp địch phục kích, nhưng chú không hề tỏ ra sợ hãi, còn nói: Em không sợ đâu. Chúng nó mà xôngra em sẽ đánh cho tơi bời. Nói xong chú thản nhiên đút công văn vào sắc thoăn thoắt bước đi, mồm lại huýt sáo vang rộn. Không ngờ hôm đó quân địch lại đánh hơi thấy chú nhỏ, chúng bí mật nằm phục kích ở giữa cánh đồng lúa, nên nhìn bề ngoài rất khó phát hiện. Lượm cũng đã rất tinh khi đi qua đi qua cánh đồng, linh cảm đến điều gì đó bất trắc nên chú nhanh tay xé vụn tài liệu và vứt vội ra xa. Có lẽ bọn địch đã trông thấy hành động đó, chúng liền xả đạn vào nó. Lượm đã anh dũng hi sinh, giữa cánh đồng, tay vẫn còn nắm chặt bông lúa, miệng còn nở một nụ cười.

Đồng chí nọ kể xong bỗng oà khóc. Tôi ngỡ ngàng, đau đớn và cũng không thể cầm được nước mắt, vừa cảm phục vừa thương tiếc. Trong tôi bỗng lại hiện lên hình ảnh chú bé nhỏ nhắn, gương mặt nhanh nhẹn, thông minh, nụ cười luôn nở trên môi.

Câu chuyện về sự hi sinh anh dũng của chú bé Lượm được mọi người ở khắp nơi kể cho nhau nghe. Chú còn trở thành tấm gương sáng để các cháu bé noi theo, và cho đến tận ngày hôm nay tấm gương ấy vẫn còn toả sáng.

Anh/ Chị Hãy Chuyển Bài Thơ Ánh Trăng Thành Một Câu Chuyện Kể

Tôi từng là một người lính trưởng thành trong kháng chiến, tôi từng cầm sứng bảo vệ cho cuộc sống của những người thân và giành độc lập cho dân tộc. Đó là những ngày tháng thật sự khó khăn nhưng cũng thật sự ý nghĩa đối với tôi. Bởi đó là những ngày tháng tôi cùng đồng đội chiến đấu, cùng đồng đội sẻ chia những gian khổ cũng như những niềm vui của cuộc sống nơi chiến trường.Tôi vẫn thường cho rằng đó là những kí ức mà tôi sẽ mang theo suốt đời, sẽ khắc khoải trong tâm hồn tôi nhưng thực tại thì không phải vậy. Khi đất nước được độc lập, tôi sống trong một hoàn cảnh mới, trước guồng quay của cuộc sống tôi dường như quên đi những kí ức xưa của mình, khi bang hoàng nhận ra thì chỉ có lại sự chua xót, day dứt khôn nguôi.

“Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ”

Cuộc sống của tôi luôn gắn liền với tự nhiên, những kỉ niệm tuổi thơ, kỉ niệm của những ngày chiến đấu cũng gắn liền với những hình ảnh bất tử ấy của tự nhiên. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình có thể quên đi những kí ức, những người bạn đồng hành trong ngày tháng gian khổ nhất ấy, thế nhưng tôi đã có những lúc quên đi cuộc sống hồn nhiên, chân chất đáng nhớ nhất của đời người ấy:

“Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa”

Chiến tranh qua đi, hòa bình lập lại tôi trở về với cuộc sống của mình, giờ đây khi thời thế đã đổi thay, tôi cũng có một cuộc sống mới với những thay đổi mới. Đó là cuộc sống nơi thành thị tấp lập, gắn liền với cuộc sống của tôi lúc này không còn là sông, đồng, bể mà đó là những ngôi nhà cao tầng, những hào nhoáng nơi đô thị ồn ào, tấp nập. Ngay cả vầng trăng tình nghĩa cũng dường như trôi vào quên lãng, để khi đi trên đường, tôi và người bạn tri kỉ ấy bỗng chốc trở thành những người dưng qua đường.

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Ngỡ người dưng qua đường”

Đến bây giờ nghĩ lại tôi mới thấy cái khoảng cách khủng khiếp mà không gian sống mang lại, nó khiến cho con người vô tình quên đi những kí ức, những kỉ niệm và những người tri kỉ, đúng như câu nói “xa mặt cách lòng”, những thứ không ở bên ta, không còn tác động đến cuộc sống của ta thường tạo ra một khoảng cách vô hình, khoảng cách ấy làm cho con người và những kỉ niệm xa nhau, dường như cắt đứt hoàn toàn sợi dây liên hệ mật thiết trước đó.

“Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn- đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn”

Vào buổi tối hôm ấy, khi đang ngồi xem truyền hình thì bỗng dưng đèn điện trong nhà vụt tắt, bóng đèn buyn- đinh tối om, theo thói quen cũng có thể là phản xạ không có điều kiện, tôi vội đến bên cửa xổ và mở hai cánh cửa ra. Lúc ấy trong đầu tôi chỉ có suy nghĩ là tìm chút ánh sáng từ bên ngoài, nhưng tôi không biết chính cái mở cửa định mệnh ấy đã khiến cho những kí ức như dòng thác lũ chảy về trong tâm hồn của tôi, gợi nhắc cho tôi về những kỉ niệm đã qua, cũng là lời nhắc nhở về sự vô tình của tôi trong thời gian qua. Hình ảnh vầng trăng tròn xuất hiện trước mắt khiến cho tôi ngỡ ngàng, choáng ngợp và có chút gì đó đau đớn, day dứt như nhận ra thứ vô cùng quan trọng mà mình lỡ lãng quên.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng”

Đối diện với vầng trăng tròn, tôi như nhìn thấy những kỉ niệm, những tình nghĩa đã qua trong thời gian quá khứ, vì vậy mà nhìn thấy vầng trăng tôi như tự soi chiếu được sự vô tâm hững hờ của chính bản thân mình, là giây phút tôi chợt nhận ra những ân tình, những kỉ niệm vẫn hiện hữu trong cuộc sống của tôi, nhưng bằng cách vô tình nhất tôi đã lãng quên đi nó, để giờ đây khi nhận thức được thì tôi lại thấy vô cùng đau đớn, xót xa. Tất cả những kí ức ùa về, những hình ảnh của tuổi thơ, những người bạn gắn bó thân thiết, rừng, sông, bể cũng cũng dạt dào trở về như nhắc nhở đến sự vô tình của tôi.

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Vầng trăng như biểu tượng của những kỉ niệm, những tình nghĩa, ân tình. Tôi xót xa nhận ra rằng những tình nghĩa khi xưa của vầng trăng vẫn vẹn nguyên, vẹn nguyên như cái vành vạnh của hình dáng của vầng trăng. Vầng trăng mang theo tình nghĩa vẫn luôn bên tôi nhưng tôi lại quá vô tình khi lãng quên đi người bạn tri kỉ cùng biết bao nhiêu kỉ niệm. Ánh trăng trầm lặng không còn sinh động như xưa, sự im lặng như chính bản án tố cáo sự vô tâm hững hờ của tôi, tôi giật mình nhận ra mình đã quên đi thứ tình nghĩa sâu nặng nhất của cuộc đời mình.

Tôi đã trải nghiệm từng lãng quên và được đánh thức dậy những phần kỉ niệm, thứ cảm giác xót xa day dứt ấy khiến cho tôi thức tỉnh, tôi hối hận vì sự vô tình của mình, vì vậy chúng ta hãy sống tình nghĩa, và đừng bao giờ quên đi những kỉ niệm, vì đó là khoảng thời gian đáng nhớ của chúng ta.

Chuyển Bài Thơ “Bếp Lửa” Thành Câu Chuyện Lớp 9 Hay Nhất

BÀI VĂN MẪU SỐ 1 CHUYỂN BÀI THƠ “BẾP LỬA” THÀNH CÂU CHUYỆN.

Nga 1963.

Ngoài trời, tuyết rơi trắng xóa. Đường phố vắng tanh, không một bóng người. Thỉnh thoảng chỉ nghe vang vọng đâu đây tiếng “cờ rộp, cờ rộp” của chiếc xe ngựa chạy vội trong đêm. Mọi nhà đều đã thắp đèn đi nghỉ. Chỉ còn le lói vài ánh đèn vàng mờ rồi bỗng vụt tắt. Tôi vẫn chưa ngủ. Cái buốt giá của mùa đông thấu tận trong tâm can khiến tôi bất giác nhớ lại những ngày tháng ấm áp của tuổi thơ. Bên chiếc lò sưởi bập bùng ánh lửa, tôi chợt nhớ đến bà, nhớ đến những hồi ức có bà ở bên, bên bếp lửa nồng đượm tình yêu thương.

Lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại cái năm tôi lên bốn tuổi. Thời kì này, cái đói, cái thiếu thốn hoành hành khắp nơi. Ngân khố nhà nước cũng chỉ vẻn vẹn có vài đồng. Người Việt Nam quen gọi cái sự kiện kinh hoàng này là “nạn đói năm 45”. Cái đói triền miên dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Số người chết vì đói gấp rất nhiều lần số người chết vì bệnh tật. Những người còn lại sống vật vờ như những bóng ma trong đêm. Bố tôi đi đánh xe ngựa với con ngựa gầy còm, ốm yếu, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi không phải là vòm trời cổ tích cao rộng và nhuốm màu lãng mạn của những phép màu kì diệu, mà đúng hơn khói bếp đã bao trùm ấn tượng suốt khung trời tuổi thơ. Tôi chợt thấy sống mũi của tôi xộc lên một thứ gì đó cay nồng khiến cho hàng lệ bất giác tuôn rơi. Dư vị một thời thơ bé vẫn còn ám ảnh đâu đây, nghĩ lại vẫn thấy xót thương trong hồi ức về bà.

Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, ba mẹ tôi phải đi ra chinh chiến ngoài mặt trận. Họ gửi tôi cho bà chăm sóc. Suốt thời gian đó tôi cùng bà nhóm lửa. Tám năm chưa phải là dài so với một đời người nhưng đối với tôi, nó như kéo dài đến triền miên, vô tận bởi tám năm ấy chỉ hai bà cháu tôi nương tựa vào nhau. Bà thường ôm tôi vào lòng, bên chiếc bếp bập bùng ngọn lửa, bà kể cho tôi những câu chuyện hồi bà còn ở Huế. Vào những ngày hè rực nắng, tiếng chim tu hú kêu tha thiết nhưng nghe như khắc khoải, giục giã cả một khoảng trời. Mỗi khi nghe tu hú kêu, tôi thường đứng lặng hàng giờ, tôi nói với cánh chim ngoài đồng kia: “Tu hú ơi! Sao mày không đến ở cùng bà, sao cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa kia vậy?”. Ba mẹ tôi đi rồi nên việc chăm sóc, dạy dỗ tôi đều nhờ cả vào đôi bàn tay bà. Bà bảo tôi những điều hay lẽ phải, bà dạy tôi những bài học bổ ích. Mỗi việc làm của bà đều thấm đượm tình yêu thương. Để có thể học ở Trường Đại học Tổng hợp KF như bây giờ có lẽ cũng đều nhờ công sức bà dạy dỗ cho tôi. Nghĩ vậy lòng tôi lại dâng lên lòng nhiệt huyết, tôi sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt sao cho xứng đáng với những gì bà mong đợi.

Chiếc lò sưởi bỗng cháy lên dữ dội. Cái ngọn lửa đó đưa tôi về cái năm giặc đốt phá làng cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tháng đi tản cư, cả dân làng trở về lầm lụi. Hàng xóm bốn bên giúp hai bà cháu tôi dựng lại túp lều tranh nhỏ để có chỗ che nắng che mưa. Gian khổ là thế, vậy mà bà vẫn vững lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của bà “Mày có viết thư cho ba mẹ chớ có kể này kể nọ, cứ bảo là nhà vẫn được bình yên”. Hồi đó tôi chưa đủ chín chắn để có thể hiểu được câu nói của bà. Tôi chỉ thắc mắc tại sao bà lại nói dối trong khi bà luôn dạy tôi phải luôn trung thực. Sau này tôi mới hiểu và cảm thấy xúc động vô cùng khi biết đó chính là hành động hy sinh âm thầm của bà. Bà đã nhận về mình tất cả những mất mát, khổ đau để cho ba mẹ tôi có thể yên tâm đánh giặc cứu nước. Tấm lòng của bà thật bao la, độ lượng làm sao!

Cơ hàn rồi giặc giã… lại vẫn chỉ có hai bà cháu tôi sớm tối. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng biết làm thế nào cho bà đỡ khổ. Rồi sớm rồi chiều, ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa tình thương bà dành cho tôi, của niềm tin vào một ngày chiến thắng, các con sẽ trở về đoàn tụ. Suốt một đời gian nan, vất vả, bà tôi tần tảo chăm sóc cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc phơ luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm cả lòng tôi, khơi gợi những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.

Giờ đây tôi đã trưởng thành, được Tổ Quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Tôi đã được khám phá biết bao điều mới mẻ nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ở quê nhà. Bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời tôi đã được nhen lên bởi ngọn lửa ấy. “Bà ơi, giờ đây bà đã đi xa, cháu chẳng bao giờ có thể gặp lại bà được nữa, nhưng hình ảnh bà sẽ mãi như ngọn lửa bà nhen, hừng hực cháy trong trái tim cháu để cháu có thêm động lực, để bước tiếp trên con đường tri thức”

Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tôi đã mơ một giấc mơ thật đẹp. Tôi lại trở thành cậu bé năm ấy và bà hiện lên thật đẹp, hiền từ và nhân hậu như bà tiên trong câu chuyện cổ tích…

BÀI VĂN MẪU SỐ 2 CHUYỂN BÀI THƠ “BẾP LỬA” THÀNH CÂU CHUYỆN

Một buổi sáng tháng 9 tại Kiev trong màn sương trắng giăng phủ. Một lớp sương mờ mờ bên ngoài ô cửa kính, vắt vẻo trên cành cây, luồn lách qua mỗi gầm ô tô. Những làn sương mỏng manh như màu khói, thoang thoảng dư vị của quá khứ một thời. Xa xa, một màu hồng nhen nhóm trong đám khói của kí ức… Là bếp lửa của bà tôi. Là bà tôi …

Khói và mùi khói- những thứ đã quá quen thuộc với tuổi thơ của một đứa trẻ như tôi, ngay từ khi mới lên bốn tuổi. Khói của bếp lửa bà nhen lên mỗi ngày trong căn bếp nhỏ hẹp, khói ở ngoài kia xộc vào trong nhà. Nếu chẳng là khói, tại sao không khí ngoài kia lại âm u và xám xịt đến thể?

Những năm ấy, năm của 1945 đói mòn đói mỏi. Trẻ con không dám và cũng không được cho ra ngoài bởi những cái thây đang chất đầy ngoài đường. Mặt họ hốc hác, tiều tùy, chỉ có xương đang lả đi, đang bất động vì không thể hoạt động được nếu chỉ có không khí mà sống. Tôi chỉ dám đứng gần đó, tựa cửa đợi bố về. Đó là một cái bóng khô rạc, gầy gò cũng chẳng khác gì con ngựa mà bố đang đi cả. Những con người chẳng một chút quen biết kia hay chính người thân thích tôi vẫn đang tựa cửa hằng ngày đợi đây, liệu họ có còn sống không, ngày mai tôi có nhìn thấy họ nữa không?… Và mùi khói kia lại tràn về. Không còn gì khác trong kí ức của một đứa trẻ bốn tuổi non nớt, chỉ là một mùi khói, một làn khói. Những làn khói đủ sức làm sống mũi của tôi bây giờ vẫn còn cay.

Ngồi nơi đây, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng tu hú. Tiếng tu hú vọng về từ một nơi nào đó, rất xa. Có lẽ là từ kí ức, kí ức của tám năm ròng cùng bà nhóm lửa. Khi ấy, ngồi nơi căn bếp chật hẹp, tối tăm, tiếng tu hú gợi mở tôi về cả một thế giới mênh mông, về những điều tốt đẹp và hạnh phúc nhưng lại rất đỗi xa vời. Những khi ấy, bà vẫn thường bế tôi vào lòng. Đôi bàn tay chai sần nhẹ nhàng xoa đầu tôi, bà kể tôi nghe những ngày ở Huế. Bà kể tôi nghe về những tháng năm dân quân cùng nhau hoạt động, về cái ngày mà bà bế tôi nghe tin Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, cái ngày mà có nước Việt Nam, có Huế độc lập.

Tiếng tu hú vẫn tha thiết, vẫn khắc khoải trong nỗi nhớ mênh mông của đứa trẻ dành cho cha mẹ. Bà bảo họ đang đi công tác, đang làm việc cho Bác Hồ, cho cuộc sống tốt đẹp hơn của hai bà cháu. Vậy là tuổi thơ của tôi gắn bó với bà còn nhiều hơn cả cha mẹ. Bà kể chuyện tôi nghe, bà dạy tôi biết làm những công việc trong nhà, biết tự lập. Bà giúp tôi chắp cánh đến gần với những con chữ, đến với tương lai. Những kí ức ấy vẫn còn tươi rói, như mới hôm qua, như vừa mới đây thôi. Rồi hình ảnh bà một mình. Hình ảnh người là lầm lũi nhóm lửa mỗi sớm mai một mình làm tôi bỗng nhói đau. Tiếng tu hú vẫn văng vẳng không nguôi. Những con người cô đơn lại sống cuộc sống đơn độc trong một cuộc đời lầm lũi của mình, không thể gặp nhau, không thể cùng hòa làm một…

Dòng kí ức xoay chuyển, chỉ còn một màu hồng rực cháy khắp nơi. Không có những căn nhà, chẳng có những mái rơm rạ, chỉ là một ngọn lửa đang cháy điên cuồng. Những ngọn lửa của giặc cháy lên cùng với nỗi đau và tức giận của những con người nơi đây vừa mới mất ngôi nhà thân yêu nhất của mình. Những khuôn mặt nhem nhuốc bước đi uể oải, tuyệt vọng từ đám tro tàn đi ra. Nhưng rồi, ngay sau đó lại là những nụ cười ấm áp. Họ hỏi thăm nhau, họ sẻ chia cho nhau, họ giúp bà cháu tôi dựng lại một túp lều mới, đong đầy tình yêu thương con người. Lúc ấy, bà vẫn nhớ mà dặn tôi rằng:

-Bố ở chiến khu còn nhiều chuyện phải lo, đừng nói gì khiến bố bận lòng. Không phải bà cháu mình vẫn bình an, và có cả một căn nhà mới rồi sao? Cứ viết thư bảo nhà vẫn được bình yên, nghe!

Nhìn khuôn mặt hiền từ với nụ cười lạc quan của bà, tôi chỉ biết gật đầu. Bà có phải tiên, phật hay không mà sao mà lại đẹp như vậy!

Sớm rồi chiều, bếp lửa ấy vẫn bập bùng mãi không tắt. Từ năm này qua năm khác, bàn tay ấy vẫn đều đặn nhóm lửa. Những củ khoai củ sắn trong những năm đói rét, trong những năm bom đạn, lửa thiêu vẫn đến tay đứa cháu, vẫn đến tay mọi người. Là khoai sắn ấy nuôi tôi lớn hay chính tình yêu thương của bà ủ trong bếp hồng, là khoai sắn hay chính tình làng xóm tạo nên niềm vui nơi xóm nhỏ? Có lẽ chính là tấm lòng của bà, là bàn tay người nhóm lửa, là đức hi sinh muôn đời của người phụ nữ Việt Nam.

Nơi tôi ở được thắp sáng trong ánh đèn điện, được sưởi ấm bên lò sưởi hiện đại, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Dẫu khói ở trăm nhà nhưng chẳng có điều gì có thể làm cay mắt tôi như ngọn khói năm ấy. Chẳng có món nào ngon như củ khoai ấy, lời nói nào hay như những lời mắng yêu của bà… Liệu lúc này, trong một buổi sớm mai, bà đã nhóm bếp chưa?

Nguồn Internet

Chuyển Nội Dung Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt Thành Một Câu Chuyện

Đề bài: Chuyển nội dung bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt thành một câu chuyện theo lời của nhân vật người cháu.

Bài làm

Tôi đặt chân lên đất nước Nga thấm thoắt đã được bốn tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sáng, tôi thường vén rèm cửa sổ căn phòng kí túc xá sinh viên từ tầng năm để nhìn ra ngoài. Tuyết rơi trắng xóa mái vòm nhà thờ cổ kính, trên ngọn cây và mặt đường. Tôi rùng mình ớn lạnh trong mấy lớp áo len, áo khoác dày sụ. Trong tâm tưởng tôi hiện lên hình ảnh một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm ở quê nhà. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi chập chờn trên vách liếp. Ôi, trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa ấp iu nồng đượm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn lung linh trong kí ức đứa cháu đang sống xa quê hương, đất nước.

Quá khứ lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Đó là năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khiến cho hơn hai triệu người chết đói. Đây là hậu quả của chính sách cai trị tàn ác, vô nhân đạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam giai đoạn này. Giống như bao gia đình nông dân khác, gia đình tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cả người lẫn ngựa khô rạc mà đồng tiền kiếm được chẳng đáng là bao. Cảnh đau thương, tang tóc diễn ra khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rạ, đống trấu lớn để hơi nóng xua bớt đi tử khí. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói. Nghĩ lại, đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt muốn ứa ra.

Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lấy chính quyền, chấm dứt ách nô lệ kéo dài gần thế kỉ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính phủ lâm thời được thành lập và lãnh tụ Hồ Chí Minh là vị Chủ tịch đầu tiên. Cả dân tộc hân hoan, phấn khởi trong niềm hạnh phúc vô bờ của cuộc sống tự do, độc lập.

Không lâu sau, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để tham gia vào sự nghiệp chống xâm lăng.

Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”

Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn ra mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch, giết sạch đến đó, gây ra tội ác ngút trời đối với dân ta. Giặc càn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tản cư, dân làng lầm lụi kéo về, dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vãi tro than. Họ giúp bà cháu tôi dựng tạm túp lều tranh nho nhỏ góc vườn. Bà bình tĩnh dặn tôi: “Bố mẹ cháu ở chiến khu, bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng ở nhà, mọi chuyện vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm”. Tôi hiểu lòng bà, càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày chiến thắng; các con sẽ trở về đoàn tụ.

Suốt cuộc đời gian nan, lận đận, bà tôi tần tảo, chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.

Giờ đây, tôi đã trưởng thành, được Tổ quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Bàn chân tôi đã in dấu trên những nẻo đường xa xôi. Mắt tôi đã được nhìn thấy nhiều điều mới lạ. Nhưng tôi không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: “Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa, truyền lại ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!”. Hình ảnh người bà kính yêu cùng bếp lửa hồng mãi mãi theo tôi suốt cả cuộc đời.