Top 12 # Kết Cấu Bài Thơ Đồng Chí Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Kết Của Bài Thơ Đồng Chí

Cam nhan ve bai tho Dong chi. Đề bài: Em hãy viết đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn kết của bài thơ Đồng chí- Chính Hữu

Việt Nam đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mĩ đầy gian khổ, đau thương nhưng không kém phần hào hùng. Và một câu hỏi đặt ra ở đây là vì sao một đất nước nhỏ bé, lạc hậu như Việt Nam lại có thể đương đầu và giành chiến thắng vẻ vang trước hai cường quốc sừng sỏ, hùng mạnh như Pháp và Mĩ. Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng tinh thần kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam thì chẳng thể nói hết được bằng lời. Đặc biệt, để tạo được sức mạnh lớn như vậy trong chiến đấu là vì con người Việt Nam biết đoàn kết, biết hỗ trợ, giúp đỡ nhau trong chiến tranh. Bài thơ Đồng chí của tác giả Chính Hữu đã thể hiện được tương quan đoàn kết đầy đặc biệt giữa những người lính- cơ sở sức mạnh của kháng chiến.

Bài thơ Đồng chí được sáng tác năm 1948- đây là thời điểm mà cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta bước vào giai đoạn khốc liệt, căng thẳng. Những người lính đã trải qua những ngày tháng chiến đấu vô cùng gian khổ, nhưng cũng chính trong hoàn cảnh này, tình đồng chí, đồng đội đã xua đi được cái khốc liệt của khói lửa của chiến tranh,làm sáng lên tình người giữa con người với con người.

Những người lính đến từ khắp nơi của đất nước, họ là những con người xa lạ, không hề có sự quen biết từ trước nhưng giữa họ có những đặc điểm chung. Trước hết, họ là những người con nghèo sinh ra từ những vùng quê nghèo khó, những người nông dân lam lũ ấy bị ngọn lửa của chiến tranh, ngọn lửa của lòng căm thù đốt lên lí tưởng mãnh liệt, đó chính là giành lại độc lập, bảo vệ cuộc sống của những người mà họ thương yêu. Từ đó mà họ trở thành những người lính, những người đồng đội:

” Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Những người lính ra trận mang theo những khát vọng đẹp, đó là mang hòa bình về cho đất nước, mang tự do về cho dân tộc, họ ra đi và nguyện dâng hiến hết mình cho đất nước.Trong những ngày tháng chiến đấu, bên cạnh sự hiểm nguy luôn rình rập thì họ còn trải qua cuộc sống sinh hoạt vô cùng khắc liệt nhưng họ đều cùng nhau đương đầu và vượt qua tất cả.

Không chỉ là những người có tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, có tinh thần đoàn kết, yêu thương đáng ngưỡng mộ mà những người lính còn là những người luôn lạc quan và hi vọng về một ngày mai tươi sáng.Khổ thơ cuối được coi là những câu thơ hay nhất của bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu sung trăng treo”

Câu thơ vừa gợi ra được cái khắc liệt của hoàn cảnh sống, hoàn cảnh chiến đấu mà còn sáng lên tinh thần lạc quan, niềm hi vọng mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng. “đêm nay rừng hoang sương muối” gợi ra khoảnh khắc đêm khuya khi những làn sương bao phủ lên núi rừng. Sương muối trong rừng không chỉ lạnh cắt da cắt thịt mà nó còn bao phủ tầm nhìn của những người lính. Trong hoàn cảnh chiến đấu ấy nếu không có sự kiên cường, quyết tâm thì khó có thể vượt qua.

Trong không gian đầy đặc biệt ấy, những người lính vẫn thực hiện nhiệm vụ của mình, đứng canh gác và chờ giặc tới. Có thể thấy những người lính trong kháng chiến không có một phút nào lơ là, mất cảnh giác mà luôn trong tư thế chiến đấu với tinh thần quyết tâm cao độ. Họ đã bên nhau cùng chờ giặc tới, trong cái lạnh giá của sương muối, trong sự hiểm nguy rình rập vẫn sáng lên hơi ấm của tình người, đó là tình đồng đội, tình đồng chí.

Câu thơ cuối được đánh giá là hàm súc nhất và mang nhiều ý nghĩa “Đầu sung trăng treo”, về ý nghĩa tả thực, nó gợi ra hình ảnh những mũi sung của người lính luôn trong tư thế chiến đấu, không gian đêm khuya xuất hiện ánh trăng tròn, do đó nhìn từ xa ta có thể thất được ánh trăng đang treo ở trên đầu súng. Về ý nghĩa biểu tượng nó tượng trưng cho khát vọng hòa bình của những người lính.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM ĐỒNG CHÍ DONG CHI CHÍNH HỮU PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ Theo chúng tôi

Kết Cấu Của Truyện Cổ Tích Loài Vật

Kết cấu là một yếu tố thuộc bình diện hình thức của tác phẩm văn học. Một số kết cấu thường gặp như kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu đi thẳng vào giữa câu chuyện, kết cấu theo hai tuyến đối lập nhau, kết cấu theo tâm lí,…

Theo Hoàng Tiến Tựu, thì “Mỗi truyện cổ tích loài vật thường được kết cấu theo hai phần “dẫn truyện” và “thuật truyện” xen kẽ nhau. Phần dẫn truyện là lời trực tiếp của người kể chuyện. Còn phần thuật truyện thường là thuật lại lời đối thoại của các nhân vật trong truyện” [2, 54].

Trên cơ sở việc nhìn nhận của nhà nghiên cứu đi trước vừa nêu, người viết đã xem xét, rà soát trên tổng thể truyện cổ tích loài vật Việt Nam(2). Kết quả của việc xem xét ấy cho thấy: không phải toàn bộ truyện cổ tích loài vật có kết cấu gồm hai phần như đã nêu, mà chỉ một bộ phận.

Đọc hai truyện cổ tích loài vật sau:

(1) CÓC, CỌP VÀ KHỈ (Truyện người Kinh)

Hôm nọ, cọp đi ngang qua góc rừng, chỗ có hang cóc, thì dừng chân nhìn ngắm. Cóc thấy cọp đến dòm ngó, sợ gây hại đến mình, bèn lo việc ngăn cản, mới lên tiếng hỏi:

– Ai vậy? Đừng có qua đây nữa mà chết oan đó!

Cọp nghe tiếng nhưng chưa thấy mặt kẻ hỏi mình, bèn hỏi lại:

– Tao đây! Tao là cóc tía. Mày không biết danh tao sao?

– Chà! Mày hình vóc bằng cổ tay, lại dám mày tao mi tớ với tao nữa! Tài nghệ gì mày mà dám xấc láo thế?

– Tao thì đủ miếng. Còn mày bất quá chỉ có tài nhảy mà thôi.

Cọp mới thách cóc nhảy thi, coi ai nhảy xa cho biết. Cóc đồng ý. Cả hai ra tới con rạch lớn, vạch mốc để đứng ngang nhau mà nhảy. Cóc bảo:

– Tao chấp mày đứng trước, tao đứng sau cũng được!

Biết trước khi nhảy, cọp thường hất mạnh đuôi nên cóc ngậm lấy chót đuôi cọp. Khi cọp nhảy sang bên kia thì cóc đã văng ra đằng trước rồi. Nó lên tiếng:

– Tôi đây! Tôi đã nhảy xa hơn anh rồi!

– Anh thật có tài nhảy phi thường!

– Tôi đã nói rồi mà! Không chỉ tài mọn ấy, tôi còn bắt sống cọp để ăn hàng ngày. Hãy coi đây thì biết!

Cóc há miệng ra, trong đó, đầy những lông cọp. Cọp thấy vậy hoảng hồn, cong đuôi chạy mất. Nó chạy mãi vẫn chưa hết kinh hoàng.

Con khỉ trên cây thấy cọp chạy như vậy, bèn kêu giựt lại, hỏi:

– Có việc gì mà anh chạy dữ vậy?

– Thôi thôi, đừng hỏi để cho tôi chạy, kẻo nó theo kịp bây giờ!

– Anh phải nói ra: cái giống gì đã khiến anh sợ đến vậy, mới được chứ?

– Cái con chi…, quên tên rồi! Nó nhỏ nhỏ, da nhám…

– Ờ, biết rồi! Con cóc, phải không?

– Sao anh dở vậy? Bẻ cổ nó như chơi kia mà! Anh sợ mà chạy chỉ khiến nó dể ngươi thôi. Không tin, anh đem tôi tới, tôi vật nó như vật nhái cho mà coi.

– Anh đừng làm phách! Không chừng lại báo hại tôi nữa!

– Nếu sợ tôi gạt, thì để tôi buộc thân mình đấu cật với lưng anh. Anh đem tôi đến đó, tôi sẽ xé xác nó cho anh coi.

Cọp đồng ý để khỉ lấy dây buộc nó với mình, lại để cho khỉ cưỡi lên lưng, từ từ trở lại chỗ cũ. Con cóc vẫn còn ngồi đó, nó lên tiếng:

– Ai vậy? Anh khỉ đó phải không?

– Anh đem nó đến nộp đó à? Nợ mười hùm chưa đủ, một đã thấm chi!

Cọp nghe nói vậy tưởng bị khỉ gạt, đem mình nộp cho cóc thật, nó lại hoảng hồn, đâm đầu chạy. Cọp phóng ào ào, không kể cây cối, gai gốc, bờ bụi gì hết.

Khỉ bị cây va vào đầu, đập vào lưng, khiến bị vỡ sọ, gãy xương, chết nhăn răng. Khi mệt quá, cọp dừng lại, thấy khỉ như vậy, nó nghĩ khỉ cười mình, nên mắng rằng:

– Hết phách lối chưa? Đã báo hại người ta, lại còn cười nữa hả?

( Nguồn: Trương Vĩnh Kí (1974), Chuyện đời xưa, Nhà sách Hoa Tiên xuất bản, Sài Gòn, tr. 12-14)

(2) THỎ LỪA BÀ DUÔN RÍT (Truyện người Ê Đê)

Ngày xửa ngày xưa, có một bà tên là Duôn Rít, hôm nọ, làm cỏ lúa một mình trên rẫy, thì gặp thỏ. Con thỏ đi kiếm ăn, thấy bà Duôn Rít làm lụng vất vả, trời đã trưa, nắng gắt mà vẫn chưa nghỉ. Nó tiến lại, nói:

– Tội nghiệp bà quá! Trời nắng chang chang thế này mà bà vẫn cúi đầu làm miết. Bà đưa cuốc đây, cháu làm cỏ giùm cho!

Bà Duôn Rít tưởng thỏ thật lòng, nói:

Bà Duôn Rít về nhà nấu cơm, bắt gà to làm thịt để thỏ về ăn trưa. Còn thỏ, khi bà Duôn Rít đi khỏi, nó cắn phá hết cả đám lúa, không sót một gốc. Xong, thỏ chạy về nhà, nói với bà Duôn Rít:

– Bà ơi, cháu đã cuốc sạch hết cỏ lúa rồi!

Bà Duôn Rít vội dọn cơm canh ra cho thỏ ăn, bắc ché rượu cần cho thỏ uống. Có điều, thấy thỏ làm cỏ nhanh quá, lòng bà đầy nghi ngại, vội chạy lên rẫy xem, thì ôi thôi, lúa đã bị cắn phá vung vãi. Bà khóc lóc kêu la, rồi chạy thật nhanh về nhà. Thỏ ở nhà, vừa ăn cơm với thịt gà, vừa thúc giục Y Rít, đứa cháu của bà Duôn Rít, lấy cần rượu mà uống. Khi bà chạy đến nhà, Y Rít mới nghe rõ tiếng bà la ó:

– Y Rít, mau đánh chết thỏ đi! Nó cắn phá lúa nhà ta hết rồi.

Y Rít vội vàng lấy gậy đánh thỏ. Thỏ sợ bỏ chạy, rồi chui vào ché. Y Rít đập bể ché. Thỏ vào bếp. Y Rít đánh nát bếp. Thỏ chui vào trốn ở đâu, Y Rít đều đánh chỗ đó tan tành. Thỏ chui vào cái cối đá giã gạo đã thủng lỗ ở dưới đáy. Y Rít cũng chui theo. Ngờ đâu, thỏ chui vào thì lọt, còn Y Rít chui vào thì bị kẹt cứng trong đó, không sao ra được.

Bà Duôn Rít chạy tới, thấy cái cối rục rịch, tưởng thỏ trong đó, nên bà đánh mạnh vào. Y Rít kêu đau, van bà tha. Nhưng bà Duôn Rít lại tưởng thỏ lừa mình, nên cứ phang thật mạnh, cho hết đụng đậy mới thôi.

Khi lôi trong cối ra, bà mới biết đã đánh nhầm cháu mình. Chôn cất cháu xong, ngày nào bà Duôn Rít cũng rầu rĩ khóc lóc, than vãn:

– Cháu thì chết, lúa thì thỏ cắn phá! Khổ quá! Giàng ơi là Giàng!

Lâu lắm, thỏ lại lần mò đến sau lưng bà, hỏi:

– Sao bà cứ than khóc miết vậy, hở bà?

Bà Duôn Rít giật mình, quài tay ra sau túm được hai cái tai dài của thỏ. Thỏ giãy giụa kịch liệt vẫn không thoát khỏi hai bàn tay cứng như gọng kìm sắt của bà. Bà Duôn Rít nghiến răng:

– Lần này tao sẽ đốt mày, ăn thịt mày!

– Nè bà ơi! Bà ăn thịt tôi đâu có lợi gì? Tôi nghe nói Mtao muốn mua thỏ về quay làm món thịt ngon đãi khách. Bà đem tôi bán cho Mtao được nhiều tiền. Lấy tiền đó bà mua lúa ăn vài năm, chẳng có lợi hơn sao?

Bà Duôn Rít nghĩ thỏ đã nói phải, cũng nên đem thỏ đi bán cho Mtao. Thỏ biết, vào giờ này Mtao đang nghỉ ăn cơm, mới nói:

– Bà nên vào cửa chính, sẽ gặp Mtao ở đó. Còn tôi sẽ vào cửa phụ và ở luôn trong chuồng nuôi súc vật của ông ta.

Bà Duôn Rít đồng ý. Thỏ vào cửa sau, gặp Mtao và vợ đang ăn cơm. Thỏ nói:

– Thưa ông Mtao, hôm nay, tôi bán bà Duôn Rít, để làm nô lệ cho ông.

– Thế ông bán bao nhiêu tiền?

– Thưa Mtao, tôi không lấy tiền, chỉ cần một cái chiêng đồng là đủ.

Mtao thấy rẻ, liền đưa cái chiêng đồng cho thỏ, rồi nói:

– Bà ấy đang vào lối cửa chính kia kìa! Bà ấy tới rồi đấy.

Bà Duôn Rít xuống tới chỗ Mtao, ngồi dưới đất, định mở miệng nói, nhưng Mtao đã nói trước:

– Ông thỏ đã bán bà cho tôi rồi. Bà phải ở đây làm nô lệ cho gia đình tôi.

Thế là cuối cùng bà Duôn Rít vẫn cứ mắc lừa thỏ.

( Nguồn: Nguyễn Thị Thu Trang (Chủ biên) (2011), Văn học dân gian các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr. 192-195)

Đọc tiếp hai truyện cổ tích loài vật khác:

(3) NGỰA VÀ HỔ (Truyện người Nùng)

Ngày xưa, hổ không có móng vuốt sắc, ngựa cũng không có bộ móng guốc để phóng nhanh như bây giờ. Lúc ấy, ngựa được loài người thuần hoá làm con vật để cưỡi và chuyên chở hàng hoá, nhưng chân của nó có móng sắc nên đi hơi chậm.

Ngựa được con người nuôi dưỡng, chăm sóc khá cẩn thận nên không đói bữa nào, nhưng thỉnh thoảng nó lại bị người chê đi không được nhanh. Nó lo lắng, có một ngày nào đó, người tìm được con vật khác đi nhanh hơn, thì nó không được nuôi nữa. Hổ vốn là một loài vật hung dữ, chuyên ăn thịt các con vật khác. Chân nó chạy nhanh nhưng không có vuốt sắc, nên nhiều khi đuổi được con vật nào đó, chưa kịp ngoạm thịt, thì con vật ấy đã tuột ra khỏi chân rồi. Chính vì vậy nên nhiều khi hổ bị đói.

Vốn là một con vật thông minh, ngựa nhận ra rằng, hổ có đôi móng chạy nhanh mà lại không phát huy tác dụng, còn nó thì có đôi móng sắc để vồ được các con vật, trong lúc chỉ ăn cỏ, thóc. Ngựa tìm gặp hổ, gạ gẫm rằng:

– Anh hãy đổi móng cho tôi! Anh kiếm ăn cần có đôi móng vuốt nhọn sắc của tôi để vồ và bắt giữ con mồi, còn tôi đã được người nuôi rồi, nên chỉ cần một đôi móng bình thường như anh thôi.

Hổ thấy ngựa nói có lí, đồng ý. Thế là ngựa và hổ đổi móng cho nhau.

Từ đấy trở đi, ngựa có đôi móng chân chắc, khoẻ, chạy nhanh như gió, và được người nuôi yêu thương, gần gũi; hổ thì ngoài hàm răng chắc, khoẻ, đã có thêm đôi vuốt sắc, nhọn để vồ và bắt giữ con mồi. Người ta thường kể rằng, mỗi khi vào rừng, ngửi thấy mùi hổ, ngựa lại sợ hổ đòi lại móng, nên nó cứ quỳ chân xuống đất để giấu móng đi; bấy giờ, nó không bước được nữa. Người nào biết có hổ tới gần, muốn ngựa chạy đưa mình đến chỗ khác để không bị hổ vồ, phải cho ngựa ngửi mùi tỏi để át mùi hổ đi, thì ngựa mới đứng lên chạy tiếp.

( Nguồn: Ngô Văn Trụ, Bùi Văn Thành (Đồng chủ biên) (2011), Di sản văn học dân gian Bắc Giang, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, tr. 381-382)

(4) GỐC TÍCH CÁI NỐT DƯỚI CỔ TRÂU (Truyện người Kinh)

Ngày xưa, con trâu cũng nói một thứ tiếng với người. Nhờ thế, người dùng lời nói để sai khiến con vật theo ý muốn của mình, thật là tiện. Cũng nhờ thế mà những người chăn trâu không dám đánh đập tàn tệ hoặc bỏ đói trâu, vì sợ trâu mách với chủ.

Có một người nông dân nuôi một con trâu và mướn một cậu bé để chăn.

Người và thú lúc đầu rất tương đắc, nhưng về sau lại sinh bất hoà. Cậu bé tính ham chơi, nhiều khi quên mất phận sự của mình, làm cho trâu không có thức gì ăn vào bụng. Có bữa mải mê đánh đáo nhưng lại sợ trâu ăn lúa, cậu ta cột chặt trâu một nơi không cho ăn. Những hôm đó, để che mắt chủ, cậu dùng mẹo: lấy mo cau áp vào hông trâu, rồi trét đất sét bên ngoài. Cứ như thế, cậu dẫn trâu về chuồng.

Chủ nhà nhìn thấy bụng trâu no căng tròn, tỏ ý hài lòng, không căn vặn gì cả.

Nhờ mẹo ấy, cậu ta qua mặt chủ nhiều lần, nhưng cũng nhiều lần làm trâu tức giận.

Một hôm, cậu quá mê chơi, bỏ trâu nhịn đói từ sáng đến chiều. Trâu gọi mãi nhưng cậu ta nào có nghe thấy gì đâu. Buổi chiều hôm ấy, trâu định mách với chủ, nhưng cậu ta đã khôn ngoan dùng lời lấp liếm, không cho trâu nói.

Sáng hôm sau, chủ dắt trâu ra đồng cày ruộng. Trâu tỏ cho thấy nó bước đi không nổi. Chủ gắt:

– Nào có chịu đi mau lên không? Đồ làm biếng!

– Tôi không làm biếng, mà tại đói quá!

– Mày nói sao? Ngày nào thằng nhỏ cũng cho mày ăn no căng bụng lên như cái trống chầu mà!

Bấy giờ trâu mới đủng đỉnh nói:

Sự giả dối của cậu bé thế là bị bại lộ. Ngay buổi trưa hôm đó, người chủ vừa gỡ hai miếng mo cau ở hai bên hông trâu, vừa đánh cậu bé một trận nên thân. Riêng trâu thì rất hả hê, vì từ hôm đó ngày nào cũng được ăn no, lại được tắm rửa sạch sẽ.

Mấy ngày sau, những chỗ bị đòn hãy còn sưng húp, cậu bé ngồi trên bờ giọt ngắn giọt dài, trong khi trâu ung dung ăn cỏ. Bỗng có một ông lão hiện ra ở sau lưng, hỏi cậu ta vì cớ gì mà khóc. Cậu chỉ vào trâu mà nói:

– Tại nó cả, vì nó mách với chủ…

Rồi cậu kể hết cho ông lão nghe. Nghe xong, ông lão dỗ dành cậu bé, và nói:

– Ta rất thương con gặp phải chuyện không may. Bây giờ con muốn gì ta sẽ làm con vui lòng.

– Vì nó biết nói, làm con phải bị đòn. Lúc này con chỉ muốn làm thế nào cho nó không thể nói được nữa.

– Khó gì việc đó. Ta sẽ có phép làm cho con vừa lòng.

Ông bèn rút trong người ra một cây nhang, đốt lên, rồi bất thình lình dí vào dưới cổ con vật. Trâu cố giãy giụa nhưng không kịp. Trâu kêu la khản cổ.

Sau đó, tiếng nói của trâu dần dần mất đi. Cuối cùng, lúc nào muốn nói, trâu chỉ phát ra được hai tiếng “nghé ngọ” mà thôi. Chỗ bị thương lâu ngày thành sẹo, chai cứng như nốt ruồi. Cả dòng họ nhà trâu từ đó sinh ra đều không biết nói, và đều có một cái nốt ở dưới cổ.

– Truyện (3): “Từ đấy trở đi, ngựa có đôi móng chân chắc, khoẻ, chạy nhanh như gió, và được người nuôi yêu thương, gần gũi; hổ thì ngoài hàm răng chắc, khoẻ, đã có thêm đôi vuốt sắc, nhọn để vồ và bắt giữ con mồi. Người ta thường kể rằng, mỗi khi vào rừng, ngửi thấy mùi hổ, ngựa lại sợ hổ đòi lại móng, nên nó cứ quỳ chân xuống đất để giấu móng đi; bấy giờ, nó không bước được nữa. Người nào biết có hổ tới gần, muốn ngựa chạy đưa mình đến chỗ khác để không bị hổ vồ, phải cho ngựa ngửi mùi tỏi để át mùi hổ đi, thì ngựa mới đứng lên chạy tiếp”.

– Truyện (4): “Sau đó, tiếng nói của trâu dần dần mất đi. Cuối cùng, lúc nào muốn nói, trâu chỉ phát ra được hai tiếng “nghé ngọ” mà thôi. Chỗ bị thương lâu ngày thành sẹo, chai cứng như nốt ruồi. Cả dòng họ nhà trâu từ đó sinh ra đều không biết nói, và đều có một cái nốt ở dưới cổ”.

Theo như đã trình bày, thì truyện cổ tích loài vật có hai kiểu kết cấu: kết cấu gồm hai phần, phần “dẫn truyện” và phần “thuật truyện”; kết cấu gồm ba phần, phần “dẫn truyện”, phần “thuật truyện”, và phần “kết truyện”.

Theo đó, thì việc ghi nhận hai kiểu kết cấu của truyện cổ tích loài vật như đã trình bày, chẳng những cho thấy một đặc điểm quan trọng về hình thức nghệ thuật của truyện cổ tích loài vật, mà còn, ở lĩnh vực nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề, là một sự bổ sung cần thiết (của người sau đối với người đi trước).

(1) Riêng truyện cổ tích về người, có hai bộ phận hay tiểu thể loại (gọi tắt là tiểu loại) truyện cổ tích, là truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế tục. Để tiện trong việc gọi tên, các nhà nghiên cứu cũng xem bộ phận truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại, cùng với hai tiểu loại vừa nêu, của truyện cổ tích

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Của Tình Đồng Chí Đồng Đội Trong Bài Thơ “Đồng Chí”

BÀI LÀM VĂN SỐ 1 VẺ ĐẸP CỦA TÌNH ĐỒNG CHÍ TRONG “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

Chính Hữu là người lính và cũng là nhà thơ của lính. Thơ ông không nhiều song ấn tượng bởi lời thơ hàm súc, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng. “Đồng chí” là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ “Đồng chí” được Chính Hữu viết năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ, khó khăn. Sau chiến dịch Việt Bắc năm 1947, Chính Hữu bị ốm nặng phải nằm lại tại một trạm quân y, đơn vị đã cử người ở lại chăm sóc. Cảm động trước tấm lòng tình cảm của người đồng đội, Chính Hữu đã viết lên bài thơ. Bài thơ đã khắc họa hình tượng người lính cách mạng từ đó làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí đồng đội keo sơn, gắn bó của họ.

Trước hết vẻ đẹp của tình đồng chí được thể hiện ở cơ sở hình thành lên tình đồng chí. Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí là cùng chung cảnh ngộ xuất thân – đều là những người nông dân mặc áo lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Lời thơ tự nhiên như lời kể của người lính về quê hương: anh đi lên từ vùng đồng bằng chiêm trũng “nước mặn đồng chua”, tôi đi ra từ vùng “đất cày lên sỏi đá”- vùng trung du miền núi. Quê anh, làng tôi – hai vùng quê cách xa nhau nhưng đều chung nhau cái nghèo khó, lam lũ. Việc sử dụng sáng tạo những thành ngữ tục ngữ đã tạo cho lời thơ mộc mạc tự nhiên như tâm hồn người trai cày nói về quê hương mình. Như vậy, những người lính đều ra đi từ những làng quê nghèo khó, họ đều là những người nông dân mặc áo lính. Chính sự đồng cảnh, đồng giai cấp đã tạo cơ sở ban đầu vững chắc để hình thành lên tình đồng chí.

Cơ sở thứ hai hình thành lên tình đồng chí là cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng. Anh với tôi từ bốn phương trời xa lạ chẳng hẹn mà cùng tụ hội về đây trong quân ngũ của lá cờ cách mạng bởi: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. Câu thơ có hình ảnh chân thực mà giàu ý nghĩa biểu tượng: “súng bên súng” là cùng chung nhiệm vụ cầm súng chiến đấu. “Đầu sát bên đầu” là cùng chung chí hướng, lý tưởng ra đi theo tiếng gọi của Tổ quốc quyết tâm chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. Cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng đã gắn kết anh tôi với nhau.

Tình đồng chí còn được hình thành từ sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn:

Câu thơ đầy ắp kỷ niệm của một thời gian khổ khó khăn: những đêm đông lạnh giá chăn không đủ đắp, họ phải chung nhau mảnh chăn mỏng. Tấm chăn sui khép lại đêm đông lạnh giá nhưng mở ra sự gắn bó hiểu nhau như tri kỷ. Cấu trúc anh tôi sống đôi khi ở hai câu thơ khi gộp làm một đã diễn tả quá trình từ xa lạ, quen nhau rồi thành tri kỉ và kết thành: “Đồng chí”. Câu thơ thứ bảy chỉ với hai tiếng và dấu chấm than vang lên như một nốt nhấn thể hiện sự phát hiện về một thứ tình cảm bình dị mà thiêng liêng, mới mẻ của những người lính cách mạng: đồng chí. Câu thơ như bản lề của bài thơ vừa khái quát cảm xúc ở sáu câu thơ đầu, vừa mở ra những biểu hiện ở những dòng thơ tiếp theo. Đồng thời làm nổi bật một quy luật tất yếu: cùng chung cảnh ngộ xuất thân, cùng nhiệm vụ lý tưởng, cùng chia sẻ gắn bó thì sẽ trở thành đồng chí của nhau.

Vẻ đẹp của tình đồng chí còn được thể hiện ở những biểu hiện cụ thể của tình đồng chí. Biểu hiện đầu tiên của tình đồng chí là họ thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng của nhau:

” Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đã nhờ người ra lính.”

Những người lính ra đi để lại sau lưng tất cả những gì thân thuộc nhất: ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa. Từ “mặc kệ” đã thể hiện thái độ dứt khoát quyết chí ra đi vì nghĩa lớn. Mặc kệ mà không hề dửng dưng vô tình: họ ra đi nhưng từ trong sâu thẳm người lính vẫn nhớ về quê hương, họ vẫn biết nơi quê nhà ruộng nương vẫn chờ tay người cày xới, gian nhà lung lay trong gió chờ người sửa sang, nơi giếng nước gốc đa có ánh mắt người thân trông ngóng. Đặc biệt hình ảnh nhân hóa ẩn dụ “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” đã thể hiện quê hương vẫn nhớ người trai cài ra trận hay người ra trận vẫn nhớ về quê hương. Nỗi nhớ hai chiều càng trở nên da diết. Trong đoạn thơ cấu trúc “anh- tôi” sóng đôi giờ chỉ còn lại anh: nỗi nhớ quê hương trong lòng anh được tôi nói hộ. Tôi nói cho anh hay đó cũng chính là nỗi nhớ quê hương của tôi. Những người lính họ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau.

Tình đồng chí còn được thể hiện ở sự chia sẻ gắn bó trong gian khổ khó khăn của cuộc đời người lính. Anh với tôi cũng chịu những cơn sốt rét từng hành hạ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.”

Cơn sốt rét từng đã trở thành căn bệnh phổ biến với những người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp ăn uống kham khổ, thiếu thốn thuốc men. Chính Hữu đã gợi tả một cách chân thực: “biết ớn lạnh”, “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Anh với tôi cùng chịu cảnh thiếu thốn:

“Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày”

Chính Hữu đã đưa vào trong lời thơ những hình ảnh chân thực về cuộc sống chiến đấu của người lính Cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp thiếu thốn đủ bề từ lương thực đến tư trang. Để từ đó người đọc có cái nhìn sâu sắc hơn về anh bộ đội. Cấu trúc “anh – tôi” lại sóng đôi như khẳng định trong gian khổ khó khăn đều có anh có tôi cùng chia sẻ gắn bó.

Trong gian khổ khó khăn người lính cách mạng hiện lên vẫn hiên ngang, lạc quan. Trong gian khổ khó khăn họ vẫn nở nụ cười – nụ cười lạc quan ấm áp xua tan cái giá buốt. Đặc biệt là hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” rất tự nhiên, chân thực nhưng đã thể hiện sâu sắc cảm động tình đồng chí của người lính cách mạng. Họ nắm lấy tay nhau như để động viên nhau, như để truyền cho nhau hơi ấm sức mạnh của tình đồng chí để cùng nhau chắc tay súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Phải chăng tình đồng chí vừa là vẻ đẹp vừa là cội nguồn sức mạnh của người lính cách mạng?

Không những thế vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ còn được thể hiện ở biểu tượng cao đẹp của tình đồng chí. Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn ba câu thơ cuối đã gợi lên bức tranh cảnh đường đêm khuya thật đẹp:

Trên nền hiện thực khắc nghiệt: đêm khuya, nơi “rừng hoang sương muối” giá buốt, người lính hiện lên với tư thế chủ động hiên ngang “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Chính tư thế thành đồng vách sắt ấy đã làm lu mờ đi mọi gian khổ khó khăn. Phải chăng chính tình đồng chí đã làm lên vẻ đẹp ấy của người lính? Hình ảnh người lính được kết đọng lại qua chi tiết bất ngờ, độc đáo:

“Đầu súng trăng treo” được Chính Hữu nhận ra từ chính những đêm hành quân phục kích chờ giặc của mình và đồng đội. Giữa mênh mông bát ngát của rừng khuya, người lính chắc tay súng canh gác, mũi súng hướng lên trời. Trăng lơ lửng giữa không trung, càng về khuya trăng xuống thấp dần, đến một mức độ nào đó nhìn lên trăng như treo trên đầu ngọn súng. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn gợi bao liên tưởng thú vị cho người đọc: “súng” là biểu tượng của chiến tranh, của hiện thực, của chất chiến sĩ; “trăng” là biểu tượng của hòa bình, của lãng mạn, của chất thi sĩ. Sự kết hợp của hai hình ảnh tưởng chừng như đối lập nhau mà lại hỏi hòa bổ sung cho nhau để cùng nói về các mặt của người lính và tình đồng chí: vừa chiến sĩ mà lại rất thi sĩ, vừa hiện thực mà lại lãng mạn. Hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn nói lên ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến: người lính cầm súng chiến đấu bảo vệ hòa bình cho quê hương, đất nước. Nhịp thơ 2/2 như gợi nhịp lắc của cái gì lơ lửng chung chiêng giữa bát ngát mênh mông chứ không thể buộc chặt. Giữa hiện thực khắc nghiệt nhưng tâm hồn người lính vẫn lãng mạn, bay bổng bởi trong lòng họ có tình đồng chí ấm áp. Chính vì vậy “Đầu súng trăng treo” đã trở thành biểu tượng của người lính cách mạng trong văn học kháng chiến và được Chính Hữu chọn làm nhan đề cho tập thơ nổi tiếng của ông.

Với bút pháp hiện thực kết hợp với cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ, hình ảnh chân thực giàu sức gợi, bài thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp của tình đồng chí của những người lính cách mạng trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ đã đem đến cho người đọc cảm nhận chân thực về người lính cách mạng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Chính vì vậy bài thơ có sức sống mãi trong lòng người đọc.

BÀI LÀM VĂN SỐ 2 VẺ ĐẸP CỦA TÌNH ĐỒNG CHÍ TRONG “ĐỒNG CHÍ” – CHÍNH HỮU

Chính Hữu là một nhà thơ quân đội trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Thơ của ông có bề dày về thời gian, tầng cao về cảm xúc, giàu chất hiện thực và vẻ đẹp của người lính Cách Mạng trong kháng chiến. Chính Hữu viết không nhiều nhưng những tác phẩm của ông đều mang hơi thở của thời đại, trong đó có bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948. Hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ với những vẻ đẹp giản dị, sơ khai nhưng có một đời sống tâm hồn, mục đích, lý tưởng cao đẹp, đặc biệt là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, thắm thiết.

Bài thơ được làm theo thể thơ tự do, 20 dòng thơ với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thơ thủ thỉ, tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có nhiều câu thơ để lại ấn tượng trong lòng bạn đọc. Mở đầu bài thơ là hình ảnh hai người lính trẻ chụm đầu vào nhau kể chuyện tâm tình:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Hai câu thơ đầy ấn tượng về những vùng đất cảnh đời đầy nhọc nhằn, vất vả. Cách nói cô đúc, khắc họa rõ nét những vùng quê nghèo của những người lính. Các anh đến từ những miền quê khác nhau nhưng lại chung cái đói, cái nghèo lam lũ. Chữ nghĩa bình thường mà như đang cựa quậy như cuộc sống thực đã ùa vào trong câu chữ đem đến những cảm nhận sâu sắc về hoàn cảnh xuất thân và quê hương của những người lính. Tổ Quốc gọi các anh lên đường, họ không hẹn mà gặp gỡ ở chiến trường. Nơi đây các anh cùng chung lý tưởng, nhiệm vụ chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”

Tình đầu chí nảy nở bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”

Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên nọ lại hở bên kia. Trong những ngày tháng thiếu thốn ấy, từ “xa lạ” họ trở thành “tri kỷ”.

“Tri kỷ” là những người bạn thân thiết, hiểu rõ về nhau. Vất vả, nguy nan đã gắn kết những người lính trở thành bạn tâm giao gắn bó. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng tình cảm trìu mến yêu thương đồng đội. Hình ảnh giản dị nhưng cảm động biết bao.

Từ trong tâm khản, họ bỗng bật thốt lên hai từ “Đồng chí!”, đặt cả trong một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. “Đồng chí” với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khác nhau vừa mới mẻ lại vừa thiêng liêng. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích, là mối tình tri kỷ nhưng được thử thách, tôi rèn trong gian khổ. Như vậy trong tình đồng chí còn có tình giai cấp, tình bè bạn, tình tri kỷ, mối tình dân tộc của những người vì nước, quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có hai chữ nhưng chất chứa dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ 6 câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo.

Từ những cơ sở hình thành tình đồng chí, những biểu hiện cao đẹp đầy xúc cảm ở những câu tiếp theo, Chính Hữu cụ thể hơn vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng thắm thiết. Đồng chí trước hết là sự thấu hiểu và chia sẻ những tâm tư, nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Hai chữ “mặc kệ” đã lột tả được tinh thần mến nghĩa của những người nghĩa binh nông dân trong thơ Nguyễn Đình Chiểu, tinh thần “Ra đi không vương thê nhi” của các đấng trượng phu xưa, và tinh thần “Quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh” của những người tự vệ thủ đô trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nhưng khi đặt cạnh “Gian nhà không” và “Gió lung lay” thì có gì đó cảm động quá. Người lính không hoàn toàn “mặc kệ” như khẩu khí đâu. Đó là đức hy sinh. Hy sinh những thứ gắn bó để bảo vệ quê hương đất nước. Một đức hy sinh giản dị cảm động lòng người.

Trải qua những ngày gian lao kháng chiến đã ngời lên phẩm chất anh hùng ở những người nông dân mặc áo lính. Cái nhìn hiện thực đã giúp nhà thơ ghi lại được những nét chân thực về cuộc đời đi chiến đấu của người lính:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Chính Hữu còn ghi lại được những hình ảnh người lính can trường vượt lên vững vàng trên vị trí của mình. Bức tượng đài cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ là bức tranh tuyệt đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt qua tất cả khắc nghiệt của thời tiết. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh tả thực, vừa là hình ảnh biểu tượng. Bốn chữ có nhịp lắc của cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Suốt đêm vầng trăng ở trên cao thấp dần và có lúc treo lơ lửng trên nền mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn thân thiết, gắn bó. “Súng” và “trăng” gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. “Súng” biểu tượng cho chiến đấu, “trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp thơ mộng, trong sáng, thanh cao, vĩnh hằng. “Súng” và “trăng”, gần và xa, thực tại và mơ mộng, chiến sĩ và thi sĩ, chất chiến đấu và chất trữ tình. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao từ cuộc đời chiến đấu.

Tình đồng chí đồng đội như là sự hội tụ, tập trung tất cả những tình cảm, những phẩm chất của nhũng người lính giản dị, cao quý. Gian lao thử thách khiến tình đồng chí đồng đội thêm keo sơn sâu sắc. Ngược lại, tình đồng chí đồng đội giúp người lính có sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn

Nguồn Internet

Cảm Nhận Vẻ Đẹp Tình Đồng Chí, Đồng Đội Của Người Lính Qua Bài Thơ Đồng Chí Của Chính Hữu

Cảm nhận vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội của người lính qua bài thơ “Đồng chí”

Nếu 7 câu thơ đầu, nhà thơ đi tìm cơ sở hình thành tình đồng chí thì mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội của người lính. “Đồng chí” đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn càyGian nhà không mặc kệ gió layGiếng nước gốc đa nhớ người ra linh”.

Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thể hiện qua tình cảm gắn bó, sẻ chia của người lính trong đời sống và chiến đấu. Đó là tình tri kỷ, hiểu ban như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu thơ “Gian không, mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình với người thân, quê hương, đất nước.

Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính nơi rừng núi: “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh tật và những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải qua. Họ cùng thiếu, cùng rách và từng bước vượt qua hoàn cảnh. Đây là hoàn cảnh chung của bỏ đối ta trong những năm dấu kháng chiến chống Pháp.

Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô động và gợi cảm biết bao, có tác dụng diễn ta sâu sắc sư gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu thốn, gian truân, cực nhọc của đời lính.

Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình. Chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.

Họ quên mình đi để động viên nhau, vun vén cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là mốt cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau, truyền cho nhau hoi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tói chiều cao: cùng sống chết cho lý tưởng:

“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”

Đối lập với hiện thực khắc nghiệt của những đêm dài lạnh giá nơi “rừng hoang sương muối” là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tói trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Họ luôn đứng cạnh nhau, sẵn sàng chiến đấu. Hiện thực khốc liệt không giết chết tâm hồn họ mà ngược lại, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, tin tưởng hướng về tương lai. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế. Cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi thì cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi. Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lán lao anh hùng. Sức mạnh của tình đồng chí lại càng nổi bật.

Vầng trăng đêm rừng tiếp thêm cho họ sức mạnh, khơi bùng khát khao chiến đấu và chiến thắng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên.

Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích giặc, người chiến sĩ bỗng phát hiện mũi súng như treo một vầng trăng.

Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất vói bầu tròi, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Hiện thực vì đêm khuya trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần. Ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chở giặc. Lãng mạn vì trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng.

Nếu “súng” là biểu tượng của chiến đấu thì “trăng” là biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống; súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ. Đây là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đòi vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.

Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc.

Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ “Đồng chí là tình cảm sâu sắc chân thành của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung nhất, với một tinh thần chung nhất. Bài thơ thơ không chỉ nói lên tình cảm gần bó sâu năng của những người lính mà còn thể hiện sức manh của tình cảm ấy. “Đồng chí’ không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.