Top 3 # Viết Bài Thơ Việt Bắc Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Phân Tích Vẻ Đẹp Của Núi Rừng Việt Bắc Qua Bài Thơ Việt Bắc

Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ Cách mạng và kháng chiến thế kỉ 20. Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Việt Bắc là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được ông gió gọn trong 8 câu thơ:

……..

Mở đầu đoạn thơ là nỗi nhớ thương, là tình cảm ân tình thủy chung của người ra đi đối với chiến khu Việt Bắc:

Cách sử dụng các đại từ nhân xưng ” ta” – ” mình” vốn rất quen thuộc trong ca dao, dân ca. Mượn lời ví von của dân gian, Tố Hữu vận dụng một cách sáng tạo mang một nội dung mới mẻ hiện đại. Chỉ riêng trong hai câu thơ đầu, đại từ “ta” xưng hô đến bốn lần tạo được ấn tượng mạnh mẽ. Nó bộc lộ cảm xúc trực tiếp của nhà thơ, của người ra đi đối với người ở lại. Tình cảm này hết sức chân thành, thiết tha, có sức lôi cuốn mạnh mẽ và tạo nên được đồng vọng, sẻ chia với người đọc.

Nỗi nhớ Việt Bắc của nhà thơ, người về xuôi đã được Tố Hữu biểu hiện hết sức cụ thể, phong phú. Không phải ngẫu nhiên mà trong bài thơ Việt Bắc, tác giả đã sử dụng 34 lần từ “nhớ” (biện pháp điệp từ) để làm nổi rõ tấm lòng ân nghĩa thủy chung, thương nhớ đối với chiến khu Việt Bắc. Từ “nhớ” được tác giả nhắc đến với nhiều ý nghĩa phong phú. Có khi diễn tả nổi nhớ như “nhớ gì như nhớ người yêu”. Cũng có lúc từ “nhớ” được sử dụng với hàm ý là nhớ lại “nhớ khi giặc đến giặc lùng”, …

Ngay trong đoạn thơ trích chỉ có 10 câu thì đã tới 5 lần từ “nhớ” được nhắc đến. Nào là “mình có nhớ ta”, “nhớ những hoa cùng người”, “nhớ người đan nón”, “nhớ cô em gái”, “nhớ ai tiếng hát”. Tất cả từ “nhớ” ở đoạn thơ này đều bao trùm hàm ý nhớ thương. Nỗi nhớ cứ tăng dần lên với nhiều biểu hiện và sắc thái khác nhau. Khi thì nhớ về một đối tượng cụ thể, xác định:

– “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”.

– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Khi lại hướng về một đối tượng mơ hồ:

– Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”.

Mặc dù sắc thái và cung bậc có khác nhau song nỗi nhớ của nhà thơ bao giờ cũng hướng về những con người lao động cân cù, chất phác với một lòng một dạ thủy chung, sắc son với Cách mạng.

Mỗi cặp thơ là một nỗi nhớ da diết cháy bỏng của nhà thơ. Nỗi nhớ cảnh và nhớ người như đan xen hòa quyện với nhau trong bốn cặp thơ lục bát. Nếu câu 6 dành cho nỗi nhớ cảnh thì câu 8 thì diễn tả nỗi nhớ con người. Cảnh và người trong mỗi cặp thơ lại mang những đặc điểm sắc thái riêng. Cứ như thế, đoạn thơ lần lượt gợi nhớ những vẻ đẹp nên thơ, trữ tình của cảnh và người Việt Bắc. Bức tranh phong cảnh thiên nhiên đa dạng về nghệ thuật màu sắc, ánh sáng và âm thanh dần hiện ra trước mắt người đọc. Nét hài hòa của nhịp thơ và hình ảnh gợi lên ở người đọc những cảm xúc và rung động trước khung cảnh vừa hùng vĩ nên thơ, vừa mênh mông man mác.

Phong cảnh thiên nhiên mà tác giả gợi tả ở đây là phong cảnh thiên nhiên rừng núi Việt Bắc. Búc tranh thiên nhiên hiện lên tự nhiên mà đẹp và nên thơ một cách tinh tế. Tố Hữu đã làm hiện rõ cảnh sắc riêng của bốn mùa trong năm một cách tài tình chỉ bằng những cặp lục bát ngắn ngủi mà đầy đủ. Việt Bắc được ghi nhận theo dòng chảy của thời gian vĩnh hằng.

Đó là cảnh mùa đông với:

Mùa đông hiện lên với sắc đỏ của hoa chuối rừng giữa đại ngàn. Trên nền xanh bất tận của muôn cây, hoa chuối rừng kiêu hãnh khoe sắc dỏ thắm tươi. Cái màu ấn tượng ấy dù đứng từ rất xa cũng có thể nhìn thấy được. Nó tập trung và thu hút cái nhìn của người đọc. Bởi nhìn từ từ rát xa nên mới có thể thấy ánh sáng phản chiếu chiếc “dao cài thắt lưng” của người đi rừng. Ánh sáng lấp lóe, bất chợt và đột nhưng rất rõ ràng.

Bức tranh mùa đông Việt Bắc không hề hiu hắt, tàn tạ như cái vốn có của thiên nhiên đất trời. Ngược lại, nó cuồn cuộn sức sống. Nó rực rỡ sắc màu và tràn trề niềm tin. Thiên nhiên đã tươi xanh, con người cũng mạnh mẽ kiên cường.

Tiếp đến, hình ảnh mùa xuân hiện ra với sắc trắng của hoa mơ trắng ngút ngàn:

Hoa mơ trắng vốn là một nét đẹp chỉ có ở núi rừng Việt Bắc. Ngày xuân, rừng mơ buông hoa trắng xóa cả núi rừng, tạo nên cảnh sắc thật kì vĩ. Những dải màu trắng hoa mơ kéo dài bất tận, như chiếc khăn mềm mại vắt ngang ngọn núi. Hình ảnh con người hiện lên trong tư thế lao động. Đôi bàn tay khéo léo chuốt từng sợi giang tỉ mỉ và cẩn trọng. Bức tranh mùa xuân tươi mát, trong sạch như tình người cán bộ son sắt, thủy chung với núi rừng, với nhân dân Việt Bắc.

Mùa hạ hiện ra với âm thanh réo rắt của tiếng ve rừng:

Tiếng ve rừng là âm thanh sống động nhất của núi rừng Việt Bắc. Không phải là tiếng kêu đơn lẻ lạc điệu của một vài chú ve. Đó là một bản đồng ca xáo động, dữ dội và rộn vang. Người nghệ sĩ của rừng cây tấu lên những khúc nhạc rộn ràng, âm vang đất trời. Có lúc im bặt rồi bất ngờ cất lên ầm ĩ. Tiếng ve hòa trong sắc vàng của rừng phách. Ve kêu cũng là lúc rừng cây phách đổ vàng. Bức tranh mùa hạ núi rừng Việt Bắc thay màu mới.

Hiện lên trong bức tranh là hình ảnh cô gái yêu kiều một mình hái măng giữa rừng. Cô hòa mình với thiên nhiên vĩ đại. Cô vui vẻ tìm kiếm những phẩm vật quý giá của rừng xanh. Dường như, cô cũng đang hân hoan ca hát cùng những chú ve, lòng rộn ràng trong bản tình ca đắm say bất tận.

Cuối cùng, hình ảnh mùa thu đọng lại với ánh trăng rừng huyền diệu và khát vọng hòa bình thiết tha:

Ánh trăng thu mở ra bức tranh mở ảo. Thật không thể nói hết vẻ đẹp của đêm trăng chốn đại ngàn. Trong bóng tối bao la và sự vắng lặng của vũ trụ, ánh trăng là nguồn sáng thu hút hồn ta, tưới tắm hồn ta tình yêu cái đẹp và tình yêu cuocj sống. Từ bào đời nay, trăng luôn là biểu tượng của cuộc sống yên bình và tươi đẹp. Trăng kết nối hồn ta với đất trời, kết nối người đi kẻ ở. Trăng luyến lưu đưa tiễn và cũng gợi nhớ kí ức xa xăm. Khi tất cả đã xa rời, trang chính là nguồn ánh sáng kì điệu đưa ta trở về.

Tố Hữu đã rất thành công khi sử dụng thể thơ lục bát mềm mại, nhuần nhuyễn một cách điêu luyện. Các câu thơ nhịp nhàng, cân đối, hài hòa đến tuyệt vời. Hình ảnh thơ được chọn lọc kĩ càng, biểu đạt sâu sắc vẻ đẹp thơ mộng của con người và thiên nhiên Việt Bắc nghĩa tình, thủy chung.

Đoạn thơ là sự hòa quyện tuyệt vời giữa âm thanh, sắc màu và hình ảnh tạo nên một bức tranh núi rừng hết sức tráng lệ, kì vĩ. Hình ảnh con người được khác họa tinh tế và đẹp đẽ. Tuy nhỏ bé nhưng không hề bị chìm lấp giữa núi rừng bạt ngàn. Con người là điểm nhấn, điểm tô cho bức tranh thêm sinh động. Tuy nhiên, sự thành công không chỉ ở nghệ thuật ngôn từ mà chính là tấm lòng tha thiết của tác giả đối với Việt Bắc.

Đây là đoạn thơ đẹp và hay. Đoạn thơ có cấu trúc hài hòa, cân đối, có giá trị tạo hình mang nhiều sắc thái biểu cảm và thể hiện cảm xúc chân thành nhất, sâu lắng nhất của nhà thơ Tố Hữu đối với cảnh vật và con người Việt Bắc.

Bài Thơ ” Cảnh Rừng Việt Bắc”

Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, xin cảm nhận baì thơ ” Cảnh rừng Việt Bắc” của Bác , để chúng ta càng kính trọng, yêu quý Bác Hơn

Cảnh rừng Việt Bắc

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay

Khách đến thì mời ngô nếp nướng

Săn về thường chén thịt rừng quay

Non xanh nước biếc tha hồ dạo

Rượu ngọt chè tươi mặc sức say

Kháng chiến thành công ta trở lại

Hồ Chí Minh

của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết năm 1947. Trong bối cảnh lịch sử đất nước, sau ngày tuyên ngôn độc lập 02/09/1945 – Trung ương Đảng, Chính Phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về làm việc tại Hà Nội. Và cũng lấy Hà Nội làm thủ đô. Hàng loạt công việc trọng đại của đất nước trong giai đoạn này như : Bầu cử Quốc hội khóa I năm 1946 ra đời hiến pháp… Rồi Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp, ký hòa ước sơ bộ với Chính phủ Pháp… đuổi quân Cảnh rừng Việt Bắc ” Tàu” ra khỏi nước ta…

Bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc” của Hồ Chí Minh đã có nhiều tác giả cảm nhận và họa thơ. Tôi cũng có vài cảm nhận và xin họa hai bài về đề tài này của Bác.

Với “Cảnh rừng Việt Bắc” ngay từ mở đề Hồ Chí Minh viết: Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay / Vượn hót chim kêu suốt cả ngày. Sự gắn kết con người với thiên nhiên – cái thực thiên nhiên hòa quyện, cái nguyên sơ, bản thể làm nên hoang dã, rả rích dội vào lòng người, hóa nên tình, nên ý… gần gũi yêu hay! Tưởng thật, làm giàu cảm xúc để ta ngưỡng vọng theo nhịp thơ Người đang mở.

Đến với câu thực: Khách đến thì mời ngô nếp nướng / Săn về thường chén thịt rừng quay. Những từ ngữ rất thông dụng, không cầu kỳ, nhưng chỉnh đối – rất dân dã, như những câu nói rất bình thường gần gũi với nhân dân, dễ biết, dễ hiểu tự tại trong cuộc sống, chẳng phải tìm đâu xa.

Là sự tiếp nối hai câu luận: Non xanh nước biếc tha hồ dạo / Rượu ngọt chè tươi mặc sức say. Ta lại càng thấy cảnh với người, thực tài gần lại nhau, quyện lại nhau, cùng tưởng thưởng với những gì cảnh có, người có… đơn giản nhưng nồng hậu, vào thời ấy, vào lúc ấy là quý lắm rồi. Một chút hòa tâm hồn vào với thiên nhiên, thư thải thưởng lãm, lẽ thường chỉ có với những tâm hồn dạt dào cảm xúc, yêu thiên nhiên yêu con người mới có được.

Để cho hai câu kết khẳng định mới hay sau: Kháng chiến thành công ta trở lại/ Trăng xưa hạc cũ với xuân này. Đầy niềm tin vào sự thắng lợi của cuộc kháng chiến là điều khẳng định vào sự thành công. Để có dịp trở lại với nhân dân với non nước núi rừng Việt Bắc đã che chở, bao bọc giúp đỡ cách mạng, Trung ương Đảng, Chính Phủ, Bác Hồ trong thời kỳ gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, mà tri ân, tri kỷ, quý trọng tình này nghĩa ấy.

Cũng là: Trăng xưa hạc cũ với xuân này – đầy hình ảnh, hình tượng của thơ ấy là trăng, “trăng lồng cổ thụ”, “trăng nhòm khe cửa”, “trăng ngân thuyền”… hạc xưa là biểu tượng đẹp chỉ có ta mới có, cổ kính mà trọng vọng tưởng đến như thần….

Thơ Hồ Chí Minh trong “Cảnh rừng Việt Bắc” vừa giản dị mộc mạc, vừa thật mà không thường, vừa tự nhiên mà rung động, cảm xúc nên hồn thi sỹ, thành tư tưởng, thành hình ảnh, hình tượng đến nao lòng – cho ta mãi mai sau ngẫm ngợi với những vần thơ theo thể thơ Đường khó nhưng hay với tài nghệ làm thơ của Người.

Cảm Nhận Khổ 6 Bài Thơ “Việt Bắc”

BÀI VIẾT SỐ 1 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU LỚP 12 Việt Bắc là một khúc tình ca nồng nàn và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của cảm hứng là tình yêu quê hương đất nước, là sức mạnh của nhân dân, là truyền thống đạo lí ân nghĩa thủy chung của dân tộc Việt Nam. Bao trùm bài thơ Việt Bắc là nỗi nhớ nồng nàn, tha thiết. Qua dòng hồi tưởng miên man của chủ thể trữ tình, cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ. Nỗi nhớ hướng về nhiều đối tượng, nhưng có lẽ tập trung nhất là nỗi nhớ về thiên nhiên Việt Bắc, về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thủy chung trong nghĩa tình để lại ấn tượng không phai mờ trong tâm trí người ra đi:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

“ Ta về, mình có nhớ ta…” giống như lời đưa đẩy trong đối đáp giao duyên của ca dao, dân ca. “Mình về mình có nhớ chăng, Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”… là câu hỏi tu từ có tác dụng khơi gợi và liên kết các nỗi nhớ lại với nhau một cách khéo léo, nhuần nhị.

“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”, hình ảnh hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Trong tâm tưởng của những người ra đi in đậm cảnh sắc tươi xanh, tràn đầy sức sống của vùng đất mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Nhớ hoa cũng chính là nhớ người và ngược lại. Nỗi nhớ đọng lại trong bức tranh cảnh sắc bốn mùa của con người Việt Bắc. Tác giả đã vẽ nên bằng ngôn ngữ thơ ca một bộ tranh tứ bình về thiên nhiên Việt Bắc. Mỗi bức tranh đều có nét đẹp riêng.

Ngòi bút tạo hình của nhà thơ đã đạt tới trình độ “thi trung hữu họa”. Ở bức tranh thứ nhất:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”.

Mùa đông Việt Bắc rực rỡ với sắc đỏ tươi nổi bật của hoa chuối rừng trên cái nền xanh trầm tĩnh của cây lá. Con người Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp khỏe khoắn. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ như phát sáng. Vẻ đẹp con người ngời lên rạng rỡ trong tư thế vươn tới đỉnh đèo. Ta có thể so sánh mùa đông Việt Bắc trong ký ức của người ra đi khác hẳn vẻ lạnh lẽo trong thơ ca cổ điển.

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

Mùa xuân, Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp dịu dàng xao xuyến với sắc hoa mơ trắng bạt ngàn rừng núi. Người Việt Bắc hiện ra trong công việc bình dị, đời thường. Động từ “chuốt” diễn tả cái tài hoa của người lao động. Mùa xuân Việt Bắc trong thơ Tố Hữu là sự hòa điệu giữa cái thanh tao thơ mộng của đất trời với cái bình dị của con người trong cuộc sống lao động đời thường. “Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Mùa hạ, Việt Bắc rộn ràng tươi sáng với sắc vàng của rừng phách và âm thanh vủa tiếng ve. Từ “rộ” có thể xem như là nhãn tụe của câu thơ, thể hiện sự tương quan kì diệu giữa âm thanh và màu sắc, khiến cho cảnh vật có sự giao cảm. Người Việt Bắc hiện ra trong vẻ đẹp hiền hòa như một điểm nhấn sâu lắng giữa không khí sôi đọng rộn ràng của thiên nhiên mùa hạ.

“ Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa thu, Việt Bắc hiện ra trong trẻo thanh bình dưới ánh trăng. Ở đây tác giả không miêu tả mà gợi tả không khí đất trời Việt Bắc trong mùa thu. Con người Việt Bắc hiện ra thắm thiết ân tình trong tiếng hát thủy chung của cách mạng. Có thể thấy bộ tranh tứ bình về Việt Bắc được phác họa bằng bút pháp chấm phá cổ điển. Các câu lục phác họa hình ảnh thiên nhiên, các câu bác thì phác họa hình ảnh con người. Cảnh sắc và con người đan cài hòa quyện vào nhau tạo ấn tượng với một Việt Bắc đầy sức sống. Trong bộ tranh tứ bình của Tố Hữu, cảnh nào cũng được thức dậy bằng tình yêu thương. Nếu màu sắc cổ điển thanh đạm thì dưới bút thơ Tố Hữu màu sắc phong phú đa dạng tươi sáng. Mỗi gam màu đều là một ấn tượng dành cho Việt Bắc. Nếu cổ điển, con người xuất hiện như một nét điểm xuyết cho thiên nhiên núi rừng, thì trong bộ tứ bình của Tố Hữu, con người hiện diện như trung tâm của khung hình, làm cho hình ảnh con người thêm nổi bật.

Đoạn thơ khép lại mà còn lưu lại trong tâm trí người đọc một Tây Bắc tươi đẹp, một Tây Bắc tươi vui, thắm thiết tình người. Qua đoạn thơ, chúng ta cảm nhận được tình cảm mà Tố Hữu danh cho thiên nhiên, con người nơi rừng nối đại ngàn, đồng thời cho thấy tình nghĩa thuỷ chung son sắt của dân tộc Việt Nam, của tình đoàn kết quân dân trong cuộc chiến giành độc lập tự do của Tổ Quốc. “Việt Bắc” và nhà thơ Tố Hữu như một bản tình ca bất hủ về tình yêu thương và lòng chung thuỷ vẹn tròn.

_TN_vfo.vnvfo.vn

BÀI VIẾT SỐ 2 PHÂN TÍCH CẢM NHẬN KHỔ 6 BÀI THƠ “ VIỆT BẮC” Bài thơ Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca hào sảng về chiến công, còn là bản tình ca ngoạt ngào của tình quân dân. Khổ sáu trong bài thơ kết tinh bút lực của nhà thơ và đậm tô vẻ đẹp quê hương cách mạng trong lòng người đi xuôi:

“ Ta về mình có nhớ ta

…Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Nhân sự kiện lịch sự trọng đại của dân tộc, khi hiệp định Gionevo được kí kết mở ra giai đoạn mới của cách mạng nước ta. Năm 1954, các cơ quant rung ương Đảng dời căn cứ Việt Bắc- nơi nuôi dưỡng, chở che cán bộ, về xuôi tiếp quản thủ đô. Biết bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi. Tình cảm đó gợi cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “ Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ.

Nỗi nhớ, niềm thương chảy xuyên suốt bài thơ, tới khổ thơ sáu trong tâm tưởng người ra đi, khắc họa trọn vẹn nét đẹp của quê hương Việt Bắc:

“ Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Kết cấu đối đáp quen thuộc thường xuất hiện trong những câu hát giao duyên của “ chàng- nàng”, “ anh- nàng”…trong buổi tình tự, hẹn hò gợi bầu không gian thấm đẫm chất trữ tình, giọng điệu thiết tha, ngọt ngào. Cách xưng hô “ mình-ta” đi về trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng bàn việc chung khiến nội dung chính trị mà không khô khan. Người ra đi trong giờ phút chia tay ở câu lục là lời ướm hỏi nhẹ nhàng về sự thủy chung của người ở lại. Đến câu bát lại là lời khẳng định hình ảnh “ những hoa cùng người” chỉ thiên nhiên và con người nơi núi rừng Việt Bắc vẫn vẹn nguyên trong tâm trí người cất bước.

Bức tranh rừng núi Việt Bắc tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, qua đó khẳng định nghĩa tình cách mạng, khẳng định ẩm hà tư nguyên. Bức tranh tứ bình đó được phác họa bằng bốn nét mực khác nhau, gợi không gian đặc trưng của tứ quý.

Người ra đi luyến lưu cảnh vật Việt Bắc trong mùa đông:

“ Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Thơ xưa khi nhắc đến mùa đông thường mang tính ước lệ với “ sương sa, tuyết lở”:

“ Sương như búa bổ mòn gốc liễu

Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô”

nhưng thơ Tố Hữu vẽ cảnh vật bằng gam màu tươi, ấm với sắc xanh, sắc đỏ hòa quyện: “ rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi, nắng ánh”, giúp ta cảm nhận sức sống bình dị và mạnh mẽ mang cảm hứng văn học cách mạng. Nét chấm phá còn ghi lại hình ảnh con người với tư thế hiên ngang, tầm vóc lớn lao của người làm chủ núi rừng: “ nắng ánh dao gài thắt lưng”. Biện pháp đảo ngữ nhấn mạnh ánh nắng buổi sớm bừng sáng khi phản chiếu vào lưỡi dao người lên rừng làm nương rẫy, đậm tô sự khỏe khoắn, vững vàng.

Người đi xuôi còn nhớ núi rừng Việt Bắc độ xuân về:

“Mùa xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Tố Hữu từ chối những mực thước cổ xưa trở về hình tượng tươi tắn từ trang đời bước ra sắc trắng của hoa mơ. Hương sắc quen thuộc đó là nét đặc trưng của rừng núi nơi đây mang nét đẹp tinh khôi, khoáng đạt. Song hành với thiên nhiên, hình ảnh người lao động được khắc tạc sinh động qua công việc thường ngày: “ chuốt từng sợi giang”. Hành động nhẹ nhàng, nâng niu đồng thời gợi sự tỉ mỉ, cần cù của bàn tay lao động khéo léo. Không chỉ hoa cỏ, con người cũng mang nét quyến rũ riêng, mãnh liệt:

“ Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Động từ “ đổ” là nhãn tự của câu lục thể hiện sự tương quan kì diệu giữa thanh âm, cảnh sắc khiến cảnh vật như có hồn, sự giao cảm. Không phải “ chuyển, nhuộm”, bởi nó gợi sự thay đổi nhất loạt, bất ngờ của cảnh vật, gợi nguồn nội sinh tràn trề của cỏ cây. Hình ảnh cô gái thôn sơn giữa khung cảnh rực rỡ ấy, lặng lẽ gắn với công việc lao động gần gũi, hài hòa như điểm nhấn lắng lại giữa không khí rộn ràng của thiên nhiên.

Sắc thu còn hiện lên rõ nét trong tâm trí người cất bước:

“Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Động từ “ rọi” gợi liên tưởng luồng sáng mạnh, đúng là ánh trăng trên thượng ngàn, ở chiến khu. Trước không gian mênh mông, nên thơ “ hòa bình”, cái đẹp yên ả trong trẻo giữa đất trời mùa thu, hình ảnh con người xuất hiện. Đại từ phiếm chỉ “ai” đưa câu thơ vào cõi mộng, có thể là giọng ca người lên đèo, cô em gái hay sự hóa thân của chủ thể trữ tình, mượn thơ thể hiện lòng thủy chung với nhân dân, kháng chiến, cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa vể đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ đi vào lòng người. “ Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kì.

Lời Bài Thơ Việt Bắc (Tố Hữu)

– Mình về mình có nhớ ta? Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không? Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

– Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

– Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù? Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

– Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy Ta đi, ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo. Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Ta về, mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà… Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay. Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miềm Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang. Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Ðiều quân chiến dịch thu đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền. Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

– Nước trôi nước có về nguồn Mây đi mây có cùng non trở về? Mình về, ta gửi về quê Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai Nâu này nhuộm áo không phai Cho lòng thêm đậm cho ai nhớ mình Trâu về, xanh lại Thái Bình Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.

– Nước trôi, lòng suối chẳng trôi Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà. Nứa mai mình gửi quê nhà Nước non đâu cũng là ta với mình Thái Bình đồng lại tươi xanh Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…

– Mình về thành thị xa xôi Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng? Phố đông, còn nhớ bản làng Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? Mình đi, ta hỏi thăm chừng Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

– Ðường về, đây đó gần thôi! Hôm nay rời bản về nơi thị thành Nhà cao chẳng khuất non xanh Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường. Ngày mai về lại thôn hương Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về Ngày mai rộn rã sơn khê Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng. Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng Phố phường như nấm như măng giữa trời Mái trường ngói mới đỏ tươi. Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông Áo em thêu chỉ biếc hồng Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi Còn non, còn nước, còn trời Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!

– Mình về với Bác đường xuôi Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường! Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người…

– Lòng ta ơn Ðảng đời đời Ngược xuôi đôi mặt một lời song song. Ngàn năm xưa nước non Hồng Còn đây ơn Ðảng nối dòng dài lâu Ngàn năm non nước mai sau Ðời đời ơn Ðảng càng sâu càng nồng.

Trích đoạn bài thơ này đã được sử dụng trong sách giáo khoa tập đọc trong nhiều năm.

Nguồn: Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 2003