Top 7 # Viết Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến

Đề bài: Phân tích khổ 1 bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng

Chiến tranh và người lính đã đi vào trong văn chương với những hình ảnh đau thương nhất và cũng là đẹp và oai hùng nhất. Trong kháng chiến chống Pháp đã có rất nhiều sáng tác viết về người lính nhưu “Đồng chí” của Chính Hữu, “Tây Tiến” của Quang Dũng… Trưởng thành trong kháng chiến và trực tiếp tham gia vào những đoàn quân xông pha nơi chiến trường, Quang Dũng đã viết về chiến tranh bằng những cái nhìn chân thực và sống động. Bài thơ “Tây Tiến” là một tác phẩm tiêu biểu cho đề tài ấy.

Quang Dũng là đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến, một đơn vị được thành lập nhằm phối hợp vỡi bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Việt-Lào. Đoàn quân ấy hoạt động chủ yếu ở phía Tây hai tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Sau chiến thắng Việt Bắc thu đông năm 1947, Quang Dũng chuyển đơn vị công tác và ông sáng tác bài “Tây Tiến” nhằm bày tỏ nỗi nhớ tới núi rung và những người đồng đội cũ. Khổ đầu của bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi đang trào trực trong lòng tác giả.

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ da diết của người chiến sĩ về núi rừng năm xưa anh đã từng đóng quân. Hai tiếng Tây Tiến được gọi lên với một thái độ thân mật, thiết tha. “Tây Tiến ơi” nghe như lời gọi thân thương của những người bạn, những người thân trong gia đình. Dù đã xa rồi nhưng những hình ảnh của núi rừng, của dòng sông Mã hiền hòa vẫn luôn hiện hữu trong lòng tác giả. Con sông Mã uốn lượn cùng những bước đi của người lính, núi rừng là nhà, là nơi họ sinh sống và chiến đấu. Thiên nhiên ở đây là những gì gần gũi và thân thuộc nhất suốt những năm tháng chiến tranh. Để rồi khi đi xa, nỗi “nhớ chơi vơi” cứ trào dâng. Nỗi nhớ ấy da diết và bền bỉ. Nó không biết bắt đầu từ đâu và như thế nào chỉ biết rằng nõi nhớ luôn thổn thức khôn nguôi, chập chờn, đeo bám lấy tâm hồn.

Nhà thơ nhớ về sông Mã, về núi rừng và những bước chân của cuộc hành quân.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mướng Lát hoa về trong đêm hơi

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Sáu câu thơ vẽ lên những khó khăn, gian khổ mà đoàn binh Tây Tiến đã phải trải qua suốt những năm gắn bó với núi rừng. Hàng loạt địa danh thân thuộc hiện về trong đầu tác gải với những kỉ niệm không bao giờ quên. Mường Lát, Sài Khao, Pha Luông…là những nơi mà đoàn binh đã từng đi qua và đóng quân ở đó. Trong suốt chặng đường, những đôi chân đã mệt mỏi rã rời. Những buổi tối, sương dày đến nỗi che lấp cả đoàn quân. Nó phủ lên đầu họ một lớp màng bọc đủ để không ai có thể nhìn thấy. Màn sương ấy có lẽ lạnh lẽo lắm.

Hiện tra trước mắt người đọc là một quãng đường đầy những khó khăn và thử thách. Chiến tranh đã nguy hiểm với bom đạn mà người lính còn phải vượt qua những trắc trở của thiên nhiên. Trên miền đất giáp biên giới, núi rừng hiểm trở biết bao. Những cung đường lên xuống như sự thay đổi nhanh chóng của những nốt nhạc lúc trầm lúc bổng. Con đường với những dốc cao chót vót và sâu thăm thẳm nối tiếp nhau, trải dài suốt chặng đường. Người lính đã phải dốc hết sức để leo lên rồi chưa kịp nghỉ ngơi lại phải thận trọng với những dốc xuống không cẩn thận là dễ dàng rơi xuống vực sâu. Sự trắc trở của thiên nhiên đã lấy đi biết bao sức lực của người lính. Có lúc nó cao vút như chọc thủng trời xanh, có lúc nó lại sâu hoáy như đâm vào lòng đất. Chặng đường như để thử thách đôi chân và ý chí của người lính, rèn luyện cho họ những kĩ năng và lòng quyết tâm vượt qua gian khổ.

Trong gian khó, có người đẫ anh dũng vượt qua nhưng cũng có người lại không thể tiếp tục chiến đấu.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Một hình ảnh chân thực đến xót xa. Qua biết bao trắc trở của thiên nhiên, núi rừng, người lính đã mệt mỏi rã rời. Người lính Tây Tiến không còn đủ sức để mà bước tiếp. Những người lính ngồi xuống, gục đầu vào cây súng để nghỉ ngơi và lấy lại sức cho những chặng đường gian khó tiếp theo. Cũng có thể, đây là hình ảnh của sự hy sinh. Các anh dù đã chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không thể chống lại được sự tàn ác và vô tình của súng đạn. Họ đã đã hy sinh, đã ngã xuống để đem lại hòa bình và tự do cho dân tộc. Các anh ra đi cùng tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Họ chiến đấu hết mình, không ngại hy sinh để bảo vệ nền hòa bình cho dân tộc. những cái chết cao cả và oai phong biết nhường nào.

Và rồi, sau những kỉ niệm ùa về, nỗi nhớ lại trào lên mạnh mẽ.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em cơm nếp xôi

Nhà thơ nhớ về hương vị của núi rừng Tây Bắc. Mùi cơm nếp thơm lừng như đâng ùa về trong khứu giác của tác giả. Hương vị ấy có lẽ nhà thơ sẽ chẳng bao giờ quên. Hai tiếng “nhớ ôi” cũng đủ để ta cảm nhận được nỗi nhớ về Tây Tiến, về đồng đội lớn đến nhường nào. Nhà thơ như đang gọi, đang níu kéo sự ùa về của quá khứ, của những năm tháng gian khó nhưng thấm đượm tình đồng chí, tình dân quân.

Như vậy, bài thơ “Tây Tiến” và đặc biệt là khổ thơ đầu đã vẽ nên bức tranh hùng hồn về tinh thân người lính trong kháng chiến chống Pháp mà cụ thể là đoàn quân Tây Tiến. Bài thơ sẽ mãi vang vọng trong lòng người đọc như một khúc ca cường tráng về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ gan dạ, dũng cảm và đầy sự lạc quan, yêu đời.

Seen

Incoming search terms:

Phân Tích Bài Thơ Tây Tiến Khổ 1

Đề bài: Phân tích bài thơ “Tây Tiến” khổ 1

Bài làm

Chiến tranh đã để lại cho con người biết ba mất mát và hy sinh. Chiến tranh, khi nhắc lên ai cũng sẽ nghĩ đến những nỗi đau và nước mắt. Nhưng trong những năm tháng gian khổ ấy, người lính đã cùng nhau trải qua, cùng nhau gây dựng một tình đồng chí, đồng đội keo sơn. Bài thơ “Tây Tiến ” của Quang Dũng chính là tiếng lòng nhớ thương da diết của người lính giành cho những người đồng đội khi họ không còn ở cạnh nhau nữa.

Tây Tiến là một đôàn quân có thật. Nó là đoàn quân được thành lập để phối hợp với quân đội Lào để bảo vệ vùng biên giới của hai quốc gia. Đoàn quân ấy có địa bàn hoạt động rất hiểm trở quanh khu vực đồi núi phía tây các tỉnh Hòa Bình và Thanh Hóa. Nhà thơ Quang Dũng là đại đội trưởng của Tây Tiến và sau khi rời đon vị năm 1948, ông đã viết nên bài thơ để bày tỏ nỗi nhớ thương đến đồng đội, đến một miền quá khứ hào hùng.

Khổ thơ đầu của bài thơ là nỗi nhớ da diết của chính tác giả.

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Đã gần một năm xa Tây Tiến, xa những người đồng chí, xa cả núi rừng nơi anh từng hoạt động. Chính vì xa cách nên nỗi nhớ cứ trào lên không gì ngăn nổi. Nỗi nhớ ấy cứ trực trào trong tâm hồn người thi sĩ để rồi ông phải cất lên ba tiếng “Tây Tiến ơi!”. Cách gọi ấy thân thiết như tiếng gọi của những người thân quen. Dù xa nhau nhưng Quang Dũng lúc nào cũng không khỏi nhớ về những năm tháng cùng đồng đội đánh giặc. Nỗi nhớ ấy “chơi vơi” không điểm dừng. Nó cứ lan dài ra, rộng ra, ôm trọn cả núi rừng vào lòng. Người đọc như lắng xuống cùng tâm hồn nhà thơ, nghẹn ngào trước những tình cảm thiết tha, dạt dào.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Đoàn binh Tây Tiến hoạt động chủ yếu ở trong vùng núi rừng. Rừng bảo vệ con người, bảo vệ người lính trước những cái nhìn tàn nhẫn của giặc thù. Thế nhưng, cuộc sống trong rừng lại gặp muôn vàn khó khăn. Những khi trời về đêm, làn sương mù măng giắc khắp lối, dày đặc. Chúng nhe che lấp đi bóng dáng của đoàn quan sau những ngày cất bước nặng nề. Một ngày dài họ đã phải băng qua biết bao bom đạn để rồi đêm xuống chân tay các anh mỏi rã rời, không còn sức lực. Bóng dáng ấy lấp sau màn sương, trong cái lạnh thấu da thịt của vùng đồi núi. Không chỉ có thế, có biết bao khó khăn vẫn bủa vây từng bước chân của các anh

Chiếu chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trên người

Người lính không chỉ đối mặt với bom đạn mà sinh mạng của họ còn bị đe dọa bởi hùm, bởi cọp đang ẩn nấp trong núi rừng. Bân đêm, chỉ cần họ sơ sẩy là có thể dễ trở thành miếng mồi ngon bất cứ lúc nào. Cái chết luôn rình rập láy những chàng lính trẻ với biết bao khăn.

Dốc lên khúc khửu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước len cao ngàn thước xuống

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Trước mắt người đọc là cảnh núi rừng hiểm trở. Những con dốc chọ thẳng lên tận trời rồi những dốc xuống đâm sâu vào lòng đất cứ nối tiếp nhau, trùng trùng điệp điệp. Đường đi quanh co, trắc trở và chẳng hề dễ dàng. Đến nỗi, mỗi dốc lên cao hình như chọc tận vào trời xanh. Những mũi súng như chạm vào từng đám mây đang bồng bềnh trôi/ Một hình ảnh được miêu tả hơi thái quá nhưng nó lại rất ý nghĩa khi nói lên cuộc hành quân của người lính Tây Tiến là vô cùng gian nan và vất vả. Thế nhưng, trong cuộc sống khốn khó, người lính trẻ vẫn không đánh mất đi sưn lạc quan, yêu đời của họ. Họ vẫn nhớ về Hà Nội, về gia đình như một động lực để họ tiếp tục chinh chiến. Họ nhớ về người yêu, nhớ về những cô gái Hà Nội dịu hiền, xinh xắn. Những bóng dáng “kiều thơm” như mơ ước về một Hà Nội tự do, yên bình.

Những gian khổ ấy dường như đã làm người lính chùn bước.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời

Sau những bước chân mỏi mệt rã rời, người lính như không còn sức lực nào để mà bước tiếp. Họ tựa vào cây súng, chìm vào giấc ngủ ngon lành để nghỉ ngôi, để hồi sức. Ngoài ra, câu thơ còn như muốn nói đến sự hy sinh của những người lính. Cuộc đời họ gắn bó với cây súng và có thể cũng đã chết đi vì súng. Họ ra đi mà không hề oán trách hay gào thét. Có lẽ họ đã không còn ngại hy sinh, họ giám đương đầu với tất cả dù chúng khó khăn đến nhường nào. Cái chết đối với họ không còn đáng sợ nữa, họ chỉ muốn nhanh chóng giành lại độc lập cho dân tộc dù có phải hy sinh cũng không hề hối tiếc.

Và rồi, sau những gian khó họ cũng được sưởi ấm bằng nắm xôi thơm lừng.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Những bước chân rã rời cuối cùng cũng tìm được chỗ nghỉ. Mùi cơm chín, mùi gạo nếp thơm lừng đã sưởi ấm trái tim lạnh lẽo suốt những ngày ở rừng. Bữa cơm tối ấy là bữa cơm của gia đình, của tình thương yêu. Nó là khát vọng, là ước mơ được nhìn thấy gia đình hạnh phúc, nhân dân ấm no từng ngày.

Như vậy, khổ thơ đầu của bải thơ “Tây Tiến” đã vẽ nên khung cảnh núi rừng bao la hiểm trơ nơi mà những người lính vẫn hằng ngày bò qua để bảo vệ nước nhà. Bài thơ với ngôn ngữ gần dũi, bình dị nhưng lại thiết tha tình cảm và nói mãi còn đọng lại trong lòng bạn đọc với một tình cảm nghẹn ngào, xót thương.

Seen

Dàn Ý Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Tây Tiến

1. Khổ 1 ( Sông Mã … nếp xôi) Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:

loading…

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

* Vần “ơi”, kết hợp từ láy “chơi vơi” là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng gọi đồng vọng miên man không dứt. Nỗi nhớ như có hình dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông.

* Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng đội, gợi nhớ bạn bè.

* Điệp từ “nhớ” được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ nhung dâng trào. Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:

Ca dao có câu: Nhớ ai bổi hổi bồi hồi Như đứng đống lửa như ngồi đống than Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả – nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người có cảm giác đứng ngồi không yên.

Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa. Nhớ cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây hùng vĩ:

– Nhắc đến nhiều địa danh: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa hạt heo hút, hoang dại.

– 6 câu thơ tiếp theo ” Sài chúng tôi khơi” diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của “thi trung hữu họa” (trong thơ có họa): Cụ thể:

Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:

+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân.

+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình “khúc khuỷu” (quanh co khó đi), “thăm thẳm” (diễn tả độ cao, độ sâu), “heo hút” (xa cách cuộc sống con người).

+ Sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi. + Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời. Nghệ thuật nhân hóa “súng ngửi trời” vừa diễn tả độ cao vừa cho thấy chất tinh nghịch trong cảm nhận của người lính. Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.

+ ” Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” với nghệ thuật đối làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.

+ Câu thứ sáu toàn thanh bằng đọc lên nghe êm ái nhẹ nhàng như xoa dịu bước chân mệt mỏi rã rời trước con đường hành quân gian khổ.

– Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính.

– Sự hùng vĩ còn là oai linh của núi rừng miền Tây: nghệ thuật nhân hóa tiếng thác gầm thét, tiếng cọp trêu người càng tô đậm vẻ hoang sơ, bí hiểm, dữ dằn của núi rừng. Thiên nhiên như đang đùa giỡn với mạng sống của con người “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người”

– Núi rừng miền Tây thơ mộng, trữ tình.

– Cuộc hành quân đi trong sương, đi trong đêm hoa, đêm hơi: “Sài khao….đêm hơi”. Miền Tây bồng bềnh trong cơn mưa rừng mịt mù làm cho những ngôi nhà Pha Luông như trôi giữa biển khơi mờ ảo ” Nhà ai… xa khơi”. Đó là sự thơ mộng của những ngọn khói bình yên tỏa ra từ những mái nhà Mai Châu hay bên bát cơm đầu mùa thơm mùi xôi nếp đậm tình quân dân ” Nhớ ôi… nếp xôi”

Theo: Thầy Phan Danh Hiếu (Tổ trưởng Tổ Ngữ văn THPT Bùi Thị Xuân. Biên Hòa. Đồng Nai)

Nhận xét

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ “Tây Tiến” Khổ 1 Chi Tiết Đầy Đủ Đoạn 1

DÀN Ý CHI TIẾT ĐẦY ĐỦ PHÂN TÍCH KHỔ 1 BÀI THƠ “TÂY TIẾN” I. Mở bài:

Giới thiệu chung về tác giả Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến.

Dẫn dắt giới thiệu khổ thơ thứ nhất.

“Tây Tiến” là bài thơ của người lính nói về người lính – anh Vệ quốc quân thời chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng. Những kỉ niệm thời cầm súng chiến đấu, những tình cảm dành cho mảnh đất, cho đồng đội cùng dầm mưa dãi nắng biết bao tháng ngày được Quang Dũng gửi qua nỗi nhớ da diết mà mênh mang, sôi trào. Khổ thơ đầu tiên của tác phẩm được nhiều người đọc đặc biệt ấn tượng khi tìm hiểu và cảm nhận.

II. Thân bài: 1. Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm: a. Tác giả:

Quang Dũng là một nhà thơ của miền xứ Đoài mây trắng, nay thuộc Hà Tây, Hà Nội.

Tác giả là một nhà thơ có tài vì “trong thơ có nhạc, có họa”.

Là một hồn thơ trung hậu, thiết tha với đất nước, con người quê hương dân tộc; một cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn xong lại rất mực hồn nhiên, chân chất.

b. Tác phẩm:

Xuất xứ: tập “Mây đầu ô” (1986).

Hoàn cảnh sáng tác: năm 1948, Quang Dũng phải dời đơn vị mình chuyển sang đơn vị khác tại Phù Lưu Chanh.

Bài thơ được viết trong nỗi nhớ, là kỉ niệm của nhà thơ về những tháng ngày sống cùng đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến.

Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm: một nỗi nhớ mênh mang, da diết về những kỉ niệm đẹp trên chiến trường, với đồng đội, với đoàn quân Tây Tiến hào hùng, hào hoa, qua những tháng ngày gian lao mà đáng nhớ.

2. Phân tích khổ thơ 1:

Ngay hai câu thơ đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã gợi ra một nỗi nhớ da diết, thương yêu dành cho sông Mã, cho miền Tây, cho núi rừng một thời thân thuộc:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” nghe sao thân quen, tha thiết mà quặn lòng đến vậy! Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” đã giúp tác giả tạo ra âm hưởng sâu lắng, thầm thể hiện nỗi bồi hồi nhớ mong đang ngập tràn trong tâm hồn, trái tim người lính xưa. Điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai như thu trọn lại để biểu lộ tâm trạng, cảm xúc rõ nét nhất của người lính Tây Tiến khi nghĩ về sông Mã, miền rừng núi một thời gắn bó và cả đoàn quân với biết bao kỉ niệm. Đến với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ nhắc đến một loạt các địa danh, bản làng như để nhắc nhớ đến nhiều kỉ niệm:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Đó là kỉ niệm về những cuộc hành quân gian nan, thử thách qua các bản, các mường xa xôi, hoang dã, thử thách ý chí, tinh thần người lính Tây Tiến.

Những câu thơ tiếp theo đã phác họa ra trước mắt người đọc khung cảnh một bức tranh núi rừng hùng vĩ, hoang sơ và hình ảnh người lính hào hùng, mạnh mẽ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây súng ngửi trời Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi

Điệp từ “dốc” trong câu thơ đã gợi ra rõ nét nhất sự hùng vĩ của thiên nhiên. Các thanh trắc trong đoạn thơ đi cùng những từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” mà Quang Dũng tinh tế lựa chọn đã gợi ra sự gập ghềnh, gian truân người lính Tây Tiến phải vượt qua trên đường hành quân.

Một từ “heo hút” được nhà thơ đưa lên đặt đầu câu thơ đã tái hiện chân thực một khung cảnh đầy xa xôi, hẻo lánh, quạnh hiu của thiên nhiên núi rừng nơi đây.

Cụm từ “súng ngửi trời”, một cách đầy tinh tế, đã giúp nhà thơ thể hiện được tinh thần lạc quan của người lính, dẫu có bao gian lao, thử thách, họ vẫn hiên ngang, chủ động, sẵn sàng vượt qua và giữ mãi tinh thần lạc quan, yêu đời.

Điệp từ “ngàn thước” kết hợp cùng phép đối lập “lên – xuống”, “cao – thấp” đã góp phần giúp cho bài thơ của Quang Dũng giàu chất họa hơn, người đọc thơ nhờ vậy “không chỉ ngậm nhạc mà còn thưởng tranh”.

Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi” mang nhiều thanh bằng đã tạo nên sự mềm mại cho câu thơ, đồng thời gợi ra một tâm trạng bâng khuâng, tha thiết, nhẹ nhàng và một tâm hồn rất đỗi thanh thản, thảnh thơi. Nếu như mưa trong thơ xưa thường gợi ra cái lạnh và lòng buồn thì ở thơ Quang Dũng, mưa không lạnh lẽo thê lương mà êm đềm, thơ mộng và bình yên đến lạ.

Trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ ấy, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp với sự hi sinh bi tráng, cao cả:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cách nói “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời” là một cách nói giảm nói tránh làm giảm đi nhiều sự đau thương, mất mát – một sự thực buồn mà bất kì một người lính nào cũng có thể phải đối mặt trên đường hành quân gian khổ.

Hai câu thơ cuối: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi liên tưởng về Mai Châu với hình ảnh khói cơm nếp, hình ảnh những con người Tây Bắc chân chất, hiền hậu – những tấm lòng thơm thảo chở che, chia sẻ khó khăn với người lính.

III. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn thơ:

Trong khổ thơ đầu bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng, thủ pháp cường điệu, tương phản hay những từ láy gợi hình, gợi cảm đã được tác giả sử dụng một cách khéo léo và tinh tế. Sau tất cả, khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ và hình ảnh người lính hào hùng đã được khắc họa một cách đậm nét, để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.