Top 12 # Viết Văn Về Bài Thơ Đồng Chí Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Bài Văn: Phân Tích Bài Thơ “Đồng Chí”

Đồng chí của Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quí ấy của những người chiến sĩ một cách sâu sắc. Lời thơ thật mộc mạc, tự nhiên như những lời tâm sự. Những thành ngữ đi vào trong thơ làm cho ta cảm giác như chính cuộc sống hàng ngày của người lính được hiện lên trước mắt ta vậy. Họ đến từ những miền quê khác nhau, người thì từ đồng bằng ven biển lên, kẻ thì từ vùng trung du xuống, nhưng họ đã dễ dàng gần gũi, thông cảm với nhau bởi cùng ra đi từ những vùng quê nghèo khó, vất vả:

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Mặc dù chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng chí. Họ cảm nhận được sự gắn bó keo sơn khi sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Lời thơ thật mộc mạc mà gần gũi nghe như văn kể chuyện về cuộc đời của những người lính trong lửa đạn chiến tranh. Câu thơ Súng bên súng đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Những người lính luôn gắn bó bên nhau lúc chiến đấu cũng nhứ lúc sinh hoạt cùng đồng đội, “súng bên súng” là cùng chung hành động, “đầu sát bên đầu” là cùng chung lí tưởng tạo nên một nguồn sức mạnh. Người lính đã cùng nhau sẻ chia gian lao, vất vả trong buổi đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều gian khổ thiếu thốn:

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Họ cùng sẻ chia những giá trị vật chất tuy chẳng là bao nhưng thấm đẫm tình đồng đội. Cùng đắp chung một chiếc chăn bông trong những đêm rừng sương lạnh, đây là điều kiện thuận lợi để người lính dễ dàng trao đổi tâm tình cho nhau. Vì thế mà họ trở thành “tri kỉ” của nhau. Hai tiếng “Đồng chí” được đột ngột tách thành một câu thơ riêng biệt có đi kèm một dấu chấm cảm, chia bài thơ thành hai nửa. Nửa trên là qui nạp, nữa dưới là diễn dịch. Hai nửa ấy như muốn làm rõ thêm tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ, làm lay động hàng triệu trái tim người đọc.

Những vần thơ như mang nặng bâng khuâng, thương nhớ của những người chiến sĩ:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay.

Đây là sự hi sinh cao cả của người lính. Họ lên đường ra mặt trận mặc dù ruộng vườn nhà cửa phải bỏ hoang. Người lính đã vì cái chung mà hi sinh cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của bản thân mình. Thật cảm động hình ảnh Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Hai chữ “mặc kệ” được cất lên, đó là một sự nỗ lực về tâm lí, một sự cố gắng để vượt lên trên những tình cảm nhớ thương dằn lòng bởi họ thấm nhuần cái chân lí “nước mất nhà tan”. Chính tình yêu quê hương của người chiến sĩ đã làm cho những vật vô tri vô giác cũng như dâng lên một nỗi nhớ:

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.

Đây cũng là cớ để gợi lên nỗi nhớ quê hương, nhớ cái giếng nước trong mát lành, nhớ gốc đa rợp bóng mát của quê mình. Họ luôn mang theo bên mình cả quê hương vào trong cuộc chiến đấu gian nan. Mặc dù buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt qua:

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

Họ đã động viên nhau, sưởi ấm cho nhau bằng hơi ấm của tình người, tình đồng đội để vượt qua những cơn sốt rét, vượt lên những khó khăn của thời tiết khắc nghiệt:

Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo.

Trong cảnh “rừng hoang sương muối” người lính đứng bên nhau phục kích chờ giặc, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả mọi khó khăn. Trong khó khăn, những người lính vẫn ung dung, chủ động, vẫn sát cánh bên nhau “chờ giặc tới”. Người lính càng yêu đời hơn bởi nơi đây còn có một người bạn tri âm tri kỉ, người bạn đó là vầng trăng thơ mộng. Đối với những người lính ra đi từ chốn đồng quê, trăng đã trở nên gần gũi, giờ đây họ lại mang vầng trăng ấy vào trong chiến trường ác liệt. Nó như thức cùng người chiến sĩ trong những đêm khuya chờ giặc tới.

Không những thế, hình ảnh vầng trăng thơ mộng còn tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Trong không khí căng thẳng vì đối đầu với địch, người lính vẫn luôn hướng về ánh sáng trong trẻo của vầng trăng và hướng về lí tưởng chiến đấu vì hoà bình của dân tộc. Bằng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã thể hiện vẻ đẹp tinh thần và sự gắn bó keo sơn của người cách mạng, vẻ đẹp của họ đáng được nâng niu, trân trọng.

Cuộc kháng chiên chống Pháp trường kì là điểm hội tụ của những người chiến sĩ có cùng nhiệt huyết chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Ở đó có hàng triệu trái tim yêu nước đã giã từ bờ tre, giếng nước của quê nhà ra đi đánh giặc. Cuộc sống vất vả, gian nan trong chiến đấu đã gắn kết họ lại với nhau trong tình đồng chí. Bài thơcủa Chính Hữu đã ghi lại tình cảm cao quí ấy của những người chiến sĩ một cách sâu sắc.Lời thơ thật mộc mạc, tự nhiên như những lời tâm sự. Những thành ngữ đi vào trong thơ làm cho ta cảm giác như chính cuộc sống hàng ngày của người lính được hiện lên trước mắt ta vậy. Họ đến từ những miền quê khác nhau, người thì từ đồng bằng ven biển lên, kẻ thì từ vùng trung du xuống, nhưng họ đã dễ dàng gần gũi, thông cảm với nhau bởi cùng ra đi từ những vùng quê nghèo khó, vất vả:Mặc dù chẳng hẹn nhưng họ lại gặp nhau và trở thành đồng chí. Họ cảm nhận được sự gắn bó keo sơn khi sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu đầy gian khổ. Lời thơ thật mộc mạc mà gần gũi nghe như văn kể chuyện về cuộc đời của những người lính trong lửa đạn chiến tranh.Câu thơ Súng bên súng đầu sát bên đầu vừa có ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Những người lính luôn gắn bó bên nhau lúc chiến đấu cũng nhứ lúc sinh hoạt cùng đồng đội, “súng bên súng” là cùng chung hành động, “đầu sát bên đầu” là cùng chung lí tưởng tạo nên một nguồn sức mạnh.Người lính đã cùng nhau sẻ chia gian lao, vất vả trong buổi đầu của cuộc kháng chiến còn nhiều gian khổ thiếu thốn:Họ cùng sẻ chia những giá trị vật chất tuy chẳng là bao nhưng thấm đẫm tình đồng đội. Cùng đắp chung một chiếc chăn bông trong những đêm rừng sương lạnh, đây là điều kiện thuận lợi để người lính dễ dàng trao đổi tâm tình cho nhau. Vì thế mà họ trở thành “tri kỉ” của chúng tôi tiếng “Đồng chí” được đột ngột tách thành một câu thơ riêng biệt có đi kèm một dấu chấm cảm, chia bài thơ thành hai nửa. Nửa trên là qui nạp, nữa dưới là diễn dịch. Hai nửa ấy như muốn làm rõ thêm tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ, làm lay động hàng triệu trái tim người đọc.Những vần thơ như mang nặng bâng khuâng, thương nhớ của những người chiến sĩ:Đây là sự hi sinh cao cả của người lính. Họ lên đường ra mặt trận mặc dù ruộng vườn nhà cửa phải bỏ hoang. Người lính đã vì cái chung mà hi sinh cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước lên trên quyền lợi của bản thân mình. Thật cảm động hình ảnh Gian nhà không mặc kệ gió lung lay. Hai chữ “mặc kệ” được cất lên, đó là một sự nỗ lực về tâm lí, một sự cố gắng để vượt lên trên những tình cảm nhớ thương dằn lòng bởi họ thấm nhuần cái chân lí “nước mất nhà tan”.Chính tình yêu quê hương của người chiến sĩ đã làm cho những vật vô tri vô giác cũng như dâng lên một nỗi nhớ:Đây cũng là cớ để gợi lên nỗi nhớ quê hương, nhớ cái giếng nước trong mát lành, nhớ gốc đa rợp bóng mát của quê mình. Họ luôn mang theo bên mình cả quê hương vào trong cuộc chiến đấu gian nan.Mặc dù buổi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhưng người chiến sĩ cách mạng vẫn vượt qua:Họ đã động viên nhau, sưởi ấm cho nhau bằng hơi ấm của tình người, tình đồng đội để vượt qua những cơn sốt rét, vượt lên những khó khăn của thời tiết khắc nghiệt:Trong cảnh “rừng hoang sương muối” người lính đứng bên nhau phục kích chờ giặc, Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả mọi khó khăn.Trong khó khăn, những người lính vẫn ung dung, chủ động, vẫn sát cánh bên nhau “chờ giặc tới”. Người lính càng yêu đời hơn bởi nơi đây còn có một người bạn tri âm tri kỉ, người bạn đó là vầng trăng thơ mộng. Đối với những người lính ra đi từ chốn đồng quê, trăng đã trở nên gần gũi, giờ đây họ lại mang vầng trăng ấy vào trong chiến trường ác liệt. Nó như thức cùng người chiến sĩ trong những đêm khuya chờ giặc tới.Không những thế, hình ảnh vầng trăng thơ mộng còn tượng trưng cho vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Trong không khí căng thẳng vì đối đầu với địch, người lính vẫn luôn hướng về ánh sáng trong trẻo của vầng trăng và hướng về lí tưởng chiến đấu vì hoà bình của dân tộc.Bằng những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, bài thơcủa Chính Hữu đã thể hiện vẻ đẹp tinh thần và sự gắn bó keo sơn của người cách mạng, vẻ đẹp của họ đáng được nâng niu, trân trọng.

Viết Đoạn Văn Cảm Nhận Ý Nghĩa 3 Dòng Thơ Cuối Của Bài Thơ Đồng Chí

Viết đoạn văn cảm nhận ý nghĩa 3 dòng thơ cuối của bài thơ “Đồng chí”

Điểm nhấn cuối cùng và ấn tượng nhất trong bài thơ Đồng chí động lại ở ba câu thơi cuối. Trong bức tranh ấy, nổi lên cảnh rừng đêm giá rét là ba hình ảnh: người lính, khẩu súng, vầng trăng. Dù hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt với “Rừng hoang sương muối” nhưng người lính vẫn “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Sức mạnh của tình đồng chí đã giúp cho họ vượt qua sự giá rét và oai nghiêm trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bên cạnh đó, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” có nhịp điệu như nhịp lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh giữa rừng khuya mà gần gũi và thân thương như một người bạn. “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa biểu tượng, được gợi ra bởi liên tưởng phong phú, sùng và trăng là gần và xa, thực tại và mơ mộng, chất chiến đấu và chất trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ. Chính Hữu đã rất thành công khi sử dụng những hình ảnh quen thuộc, gần gũi và gắn bó sâu sắc với cuộc đời người lính làm hiện rõ hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt và lý tưởng cao đẹp của họ. Giữa thiên nhiên, hoàn cảnh và lý tưởng ngỡ như đối lập mà lại rất hòa hợp. Thiên nhiên tạo nền cho lý tưởng tỏa sáng. Bởi thế, càng nhìn ngắm, càng thấy đẹp đẽ. Rừng thiêng nước độc, nghĩ đến đã thấy rùng mình nhưng lại là người bạn, là căn nhà thân thiết, cùng người lính đánh giặc. Nói như nhà thơ tố Hữu: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”.

Cảm nhận ý nghĩa 3 câu thơ cuối bài thơ Đồng chí

Viết về đề tài tình cảm trong chiến tranh vốn là đề tài đước các văn nghệ sĩ hết sức quan tâm. Đóng góp vào kho tàng ấy, nhà thơ Chính Hữu với bài thơ “Đồng chí” đã tái hiện lại hình ảnh người lính chống Pháp một cách chân thực, giàu tính lãng mạng. “Đồng chí” là bài thơ ca ngợi một tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong cách mạng và kháng chiến. Đó là tình cảm gắn bó, sẻ chia được gửi vào 3 câu cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muốiĐứng cạnh bên nhau chờ giặc tớiĐầu súng trăng treo”.

Trong những giây phút đối mặt với kẻ thù, tình đồng chí càng trở nên cao đẹp, thiêng liêng. Điều kiện chiến đấu thử thách gian lao: “rừng hoang, sương muối” nhưng những người lính không đơn độc, không rét buốt; bên cạnh họ là tình đồng đội ấm áp: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”.

Hơn lúc nào hết, người lính thấm thía tình đồng đội, cùng chia sẻ với nhau sự sống và chết. Có đồng đội, họ có tư thế chiến đấu hiên ngang, chủ động, họ biến cái không thể thành có thể, làm cho những gian lao, khó nhọc trở nên nhẹ nhàng.

Biểu tượng “Đầu súng trăng treo” là một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, đậm chất thơ. Câu thơ có sự kết hợp nhuần nhị giữa hai bút pháp nghệ hiện thực và lãng mạn. Cuộc chiến đấu gian khổ ác, liệt là hiện thực trước mắt. Còn ánh trăng bền vững trên cao là biểu tượng của ước mơ, hạnh phúc và an vui. Hình ảnh còn là sự hài hòa giữa hai tâm hồn chiến sĩ và thi sĩ; giữa hai tính chất: trữ tình và chiến đấu.

Cách xây dựng những câu thơ sóng đôi biểu hiện sự gắn bó, sẻ chia những gian nan, nhọc nhằn trong cuộc sống chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngôn từ chọn lọc, chân thực, cô đọng và hàm súc → diễn đạt một ý tưởng trọn vẹn đi dọc suốt bài thơ: Tình đồng đội đồng chí thắm thiết – điểm tựa tin cậy cho người lính những khi đối mặt với hiểm nguy – cái chết.

Chiến tranh đã đi qua nhưng những năm tháng lịch sử ấy là thời khắc không thể nào quên. Nhà thơ Chính Hữu cùng bài thơ “Đồng chí” đã góp thêm vào trang sử hào hùng của dân tộc một hình tượng văn học mơi: hình tượng người lính Cụ Hồ và ý nghĩa cao đẹp của tình đồng đội, đồng chí. Những người lính ấy đã hi sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh vệ quốc, mãi mãi được những người đời sau ghi nhớ

“Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm nên Đất Nước”.

(Nguyễn Khoa Điềm)

Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí

Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí – Bài làm 1

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri ki” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đ-ồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:

“Ôi núi thẳm rừng sâu

Trung đội đã về đâu

Biết chăng chiều mưa mau

Nơi đây chăn giá ngắt

Nhớ cái rét ban đầu

Thấm mối tình Việt Bắc…”

(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận?

Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:

“Bấm tay tính buổi anh đi,

Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?

Lúa xanh xanh ngắt chân đê,

Anh đi là để giữ quê quán mình.

Cây đa bến nước sân đình,

Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.

Hoa cau thơm ngát đầu nương,

Anh đi là giữ tình thương dạt dào.

(…) Anh đi chín đợi mười chờ,

Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày…”

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến dấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:

“Đầu súng trăng treo”.

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí – Bài làm 2

Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu là một bài thơ hay viết về người lính.Với giọng thơ bình dị, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu được phác họa đầy tính chân thực giản dị, nhưng vẫn toát lên vẻ bi tráng, hào hùng của những người anh hùng của dân tộc.

Bài thơ ca ngợi tình cảm đồng chí, đồng đội trong gian khổ có nhau chia sẻ với nhau từng miếng cơm, giấc ngủ, chăm sóc nhau trong những trận sốt rét rừng. Mọi khó khăn thử thách có thể xảy ra nhưng nhờ có tình cảm đồng chí mà họ không cảm thấy cô đơn trống trải.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Trong hai câu thơ này hình ảnh những người lính được tới từ những vùng quê nghèo khác nhau, bốn phương trời chẳng hẹn mà quen. Họ cùng hội tụ ở đây dưới ngọn cờ của cách mạng, bởi tình yêu quê hương đất nước. Họ có chung một lý tưởng vĩ đại muốn giải phóng quê hương khỏi bóng quân thù.

Từ những con người hoàn toàn xa lạ nhưng họ đã về đây bên nhau cùng nhau đứng dưới lá cờ của tổ quốc. Họ tới nơi đây cùng chung một ước mơ, một ý chí, tinh thần, một mục tiêu phấn đấu. Đó chính là hướng nòng súng của mình tới những kẻ thù để bảo vệ quê hương và những người thân yêu nơi quê nhà đang chìm trong gian khổ, lam lũ bởi sự chà đạp của những bọn người mắt xanh mũi lõ từ đâu tới, bóc lột thống trị đất nước ta. Bọn chúng bắt dân ta phải làm nô lệ, bắt đất nước ta phải sống cảnh thuộc địa lầm than.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Hình ảnh súng bên súng, đầu bên đầu, thể hiện họ có chung một mục tiêu chiến đấu, có chung lý tưởng lẽ sống của đời mình. Họ có một kẻ thù chung của toàn dân tộc. Những người lính thân yêu của chúng ta ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, họ mang trong trái tim mình những hoài bão lớn lao, tình yêu quê hương to lớn. Họ sẵn sàng hiến dâng trái tim và thể xác để bảo vệ dân tộc.

Tình yêu quê hương đất nước lớn hơn tất cả khiến họ bỏ lại nơi quê nhà những điều chưa làm xong, những điều còn lo toan trăn trở, nhưng họ quyết tâm ra đi vì lý tưởng bảo vệ nền độc lập của dân tộc, vì tình yêu quê hương đất nước.

” Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày…”

Những người nông dân từ khắp các vùng miền của tổ quốc, tiếng nói khác nhau, phong tục tập quán khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau. Nhưng tất cả đã cống hiến tuổi trẻ, sức lực trí tuệ của mình để bảo vệ cho được mảnh đất quê hương.

Họ ra đi khi tuổi đời còn đang xuân xanh phơi phới, tâm hồn còn đang tràn đầy nhiệt huyết, dòng máu đang chảy trong người họ ấm nóng những ước mơ khát khao của tuổi trẻ.Các anh ra đi có những người con chưa một lần cầm tay cô gái mình yêu thích, chưa một lần rung động. Nhưng khi tổ quốc cần thì tất cả sẵn sàng lên đường chiến đấu.

Họ ra đi như vậy, không tiếc tuổi xuân của mình chỉ với một mong ước, một nguyện vọng bảo vệ cho được tổ quốc thiêng liêng, với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Những hy sinh gian khổ của các anh, người đời sau vẫn còn ghi nhớ mãi, công lao trời biển của các anh không phút giây nào tổ quốc quên ơn.

Đên nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”.

Những câu thơ này thể hiện sự tinh tế của Chính Hữu khi tác giả đã sử dụng hình ảnh vô cùng nghệ thuật “đầu súng trăng treo”. Chính Hữu đã tinh tế khi vẽ lên một bức tranh giữa một cái vô cùng lãng mạn đậm chất thơ đó chính là ánh trăng, với một thứ tượng trưng cho chiến tranh chết chóc, hình ảnh đầu súng trăng treo là hình ảnh vô cùng sinh động, tươi đẹp thể hiện tâm hồn lãng mạn của những người chiến sĩ. Đó là hình ảnh thơ mộng nói lên tinh thần quả cảm của người lính, trong gian khổ nhưng họ vẫn yêu đời, vẫn lãng mạn

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp bi tráng, anh hùng vừa thể hiện sự giản dị, mộc mạc của người chiến sĩ trong chiến tranh. Tác giả Chính Hữu đã phác họa lên hình ảnh người lính với thâm hồn thanh cao, lãng mạn, nhưng cũng đày chất anh hùng, bi tráng.

Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí – Bài làm 3

Nói đến thơ thời kháng chiến chống thực dân Pháp, người đọc không thể không nhắc đến Đồng chí của Chính Hữu. Bài thơ mang vẻ đẹp của tình đồng đội, đống chí giản dị, mộc mạc mà sâu sắc của những người lính cách mạng trong những tháng ngày kháng chiến gian lao.

Nhà thơ Chính Hữu đã từng nói về tác phẩm của mình: “Trong bài thơ Đồng chí, tôi muốn nhấn mạnh đến tình đồng đội. Trong suốt cả cuộc chiến đấu, chỉ có một chỗ dựa dường như là duy nhất để tồn tại, để chiến đấu là tình đồng chí, tình đồng đội. Đồng chí ở đây là tình đồng đội. Không có đồng đội, tôi không thể nào hoàn thành được trách nhiệm, không có đồng đội, có thể nói, tôi cũng chết lâu rồi. Bài Đồng chí là lời tâm sự viết ra để tặng đồng đọi, tặng người bạn nông dân của mình”.

Thật vậy, không gian trữ tình trong Đồng chí giá buốt mà rất ấm áp. Hơi ấm tỏa ra từ tình người, từ tình tri kỉ, tình đồng đội, luôn kề vai sát cánh bên nhau của những con người chung lí tưởng, chung chí hướng. Đứng trong hàng ngũ cách mạng chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, người lính luôn cùng nhau vượt lên trên mọi gian khổ bằng sự sẻ chia, đồng tâm hiệp lực. Họ sống ấp áp, yêu thương, quan tâm trong tình đồng đội, nhờ đồng đội, vì đồng đội.

Những người đồng đội ấy thường là những người “nông dân mặc áo lính”. Điểm giống nhau về cảnh ngộ xuất thân giúp họ có thể dễ dàng gần gũi, đồng cảm với nhau:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua,

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

“Anh và tôi” từ những vùng quê khác nhau, nhưng đều là những vùng quê nghèo khó. Anh từ miền quê ven biển: “nước mặn đồng chua”. Tôi từ vùng đất cao “cày lên sỏi đá”. Hai người xa lạ, từ hai phương trời xa lạ, chẳng hẹn quen nhau bao giờ và giờ đây lại trở thành tri kỉ:

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Những người “nông dân mặc áo lính” ấy gặp nhau trong cuộc chiến đấu vì chính cuộc sống của họ, cùng đứng trong hàng ngũ những “người lính Cụ Hồ”. Sự nghiệp chung của dân tộc đã xóa bỏ mọi khoảng cách xa lạ về không gian nơi sinh sống của mỗi người. Biến họ từ những người khác nhau, xa lạ trở thành tri kỉ. “Súng bên súng” là chung chiến dâu, “đầu sát bên đầu” thì chung tất nhiều: không chỉ là gần nhau về không gian mà còn c hung nhau ý nghĩ, lí tưởng. Đến khi đắp chung nhau một tấm chăn trong đêm giá rét thì họ đã thực sự là anh em một nhà. Nhà thơ Tố Hữu cũng từng viết: “Bát cơm sẻ nửa, chăn sui cùng đắp” để thể hiện tình kháng chiến gắn bó, bền chặt giữa các chiến sĩ. Tố Hữu đã nói về sự gần gũi, sẻ chia của họ bằng hình ảnh đắp chung chăn thật độc đáo. Như thế, tình đồng chí đã bắt nguồn từ cơ sở một tình tri kỉ sâu sắc, từ những cái chung giữa “anh” và “tôi”.

Câu thơ thứ bảy chỉ gồm hai tiếng: Đồng chí. Có thể nói, nếu không kể nhan đề thì đây là lần duy nhất hai tiếng ấy xuất hiện trong bài thơ, làm thành một câu thơ riêng biệt. Câu này có ý nghĩa quan trọng trong bố cục của toàn bài. Nó đánh dấu một cột mốc mới trong mạch cảm xúc và bao hàm những ý nghĩa sâu xa. Sáu câu thơ đầu là tình đồng đội, tri kỉ, đến đây được nâng lên thành tình đồng chí thiêng liêng. Đồng chí nghĩ là không chỉ có sự gắn bó thân tình mà còn là cùng chung chí hướng cao cả. Những người đồng chí – chiến sĩ hòa mình trong mối giao cảm lớn lao của cả dân tộc. Gọi nhau là đồng chí thì nghiã là đồng thời với tư cách họ là những con người cụ thể, là những cá thể, họ còn có tư cách quân nhân, tư cách của “một cây” trong sự giao kết của “rừng cây”, nghĩa là từng người không chỉ là riêng mình. Hai tiếng đồng chí vừa giản dị, vừa thân mật lại vừa cao quý, lớn lao và vì thế.

Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận?

Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê huơng đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nén sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:

“Bấm tay tính buổi anh đi,

Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?

Lúa xanh xanh ngắt chân đê,

Anh đi là để giữ quê quán mình.

Cây đa bến nước sân đình,

Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường.

Hoa cau thơm ngát đầu nương,

Anh đi là giữ tình thương dạt dào.

(…) Anh đi chín đợi mười chờ,

Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”

Bên cạnh hình bóng quê hương, điểm tựa vững chắc cho người lính là tình đồng đội. Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi.

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá chân không giày…”

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao dẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. ình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Bài thơ kết bằng hình tượng những người đồng chí trong thời điểm thực tại khi họ đang làm nhiệm vụ chiến đấu:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Có thể xem đây là một trong những hình ảnh thơ đẹp nhất về người lính trong thơ ca kháng chiến. Ba câu thơ phác ra một bức tranh vừa mang chất chân thực của bút pháp hiện thực, vừa thấm đẫm cái bay bổng của bút pháp lãng mạn. Ba câu thơ là bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính, là biểu tượng đẹp về cuộc đời người chiến sĩ. Trong bức tranh trên, nổi bật là ba hình ảnh gắn kết với nhau: Người lính, khẩu súng, vầng trăng giữa cảnh rừng hoang sương muối phục kích giặc. Sức mạnh của tình đồng đội đã giúp họ vượt lên tất cả những khắc nghiệt của thời tiết và mọi gian khổ, thiếu thốn. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ. Hình ảnh Đầu súng trăng treo là hình ảnh đẹp nhất vì nó vừa là hình ảnh thực vừa là hình ảnh tượng trưng.

Tác giả Chính Hữu đã từng nói: “Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn” Đó là hình ảnh thực của cuộc kháng chiến, của những người lính khi chờ giặc tới.

Ngoài tả thực, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực, vừa mơ, vừa xa vừa gần, vừa mang tính chiến đấu, vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lí tưởng chiến đấu và tình nghĩa thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.

Với nhịp chậm, giọng thơ hơi cao, ba câu thơ cuối của bài một lần nữa khắc họa chân thực mà sâu sắc về hình ảnh người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tình cảm đồng chí, đồng đội là tình cảm thiêng liêng cao đẹp nhất của những người lính. Đó là sức mạnh giúp họ vượt qua tất cả mọi khó khăn trở ngại, mọi thiếu thốn để chiến thắng kẻ thù. Bài thơ Đồng chí đặc biệt là ba câu kết như một lời nhắn nhủ với mọi người: Hãy biết nâng niu và gìn giữ những tình cảm đẹp trong cuộc sống, phải biết kính trọng những người lính.

Cùng nhau cảnh ngộ, chung nhau lí tưởng, chung nhau cái rét, cái khổ,… những người lính -những người đồng chí sống, chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ Đồng chí đã thể hiện rất rõ vẻ đẹp của những con người sống và chiến đấu cho hạnh phúc, tự do.

Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí – Bài làm 4

Bài thơ “Đồng Chí” của Chính Hữu là một bài thơ vô cùng hay độc đáo khi viết về đề tài người lính xuất thân từ những người nông dân áo vải trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tác giả Chính Hữu đã sử dụng những ngôn ngữ thơ vô cùng giản dị, gần gũi để nói lên những tình cảm, cảm xúc ở trong lòng mình về những người lính nông dân, ra đi từ những làng quê của mọi miền tổ quốc. Bài thơ “Đồng Chí” ca ngợi những người lính những người chiến sĩ trong gian khổ, sinh tử luôn có nhau ấm áp tình đồng đội, đồng chí. Tuy không sinh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm nhưng luôn sát cánh bên nhau, cùng nhau vượt qua những giây phút sinh tử.

Mở đầu bài thơ tác giả Chính Hữu đã khắc họa lên chân dung người lính là những người nông dân thật thà, hiền lành chất phác. Vì lời kêu gọi của quê hương tổ quốc mà không ngại hy sinh lên đường tham gia chiến đâu.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”. Anh với tôi hai người xa lạ Từ phương trời chẳng hẹn mà quen

Trong khổ thơ này đã tái hiện lại xuất thân của những người lính trong thơ của Chính Hữu không phải những người thanh niên trí thức từ thủ đô Hà Nội như những người lính trong binh đoàn Tây Tiến của Quang Dũng, mà họ chỉ là những người nông dân xuất thân nghèo khổ, quanh năm cày cấy, bán mặt cho trời bán lưng cho đất.

Từ những vùng quê nghèo mà đất cày lên toàn sỏi đá, cho thấy những lam lũ nhọc nhằn của lính ở quê hương nghèo khó. Những nỗi cực nhọc họ đã phải trải qua nơi quê nhà. Những người dân lao động đó đã từ khắp nơi, từ mọi miền tổ quốc tụ hợp về đây dưới ngọn cờ của cách mạng cùng nhau đoàn kết chống lại kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước của mình.

Dù họ không có một lời hẹn nào nhưng khi ra chiến trường họ trở thành bạn, thành đồng đội thành những người cùng chung chăn, chung trí hướng, cùng một kẻ thù. Nên họ nhanh chóng thân thiết tạo nên những tình bạn lớn, tình đồng đội đáng trân trọng.

“Súng bên súng, đầu sát bên đầu, Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ Đồng chí!”

Trong những câu thơ này thể hiện họ có chung một trí hướng, cùng một mục tiêu kẻ thù. Hình ảnh súng bên súng thể hiện cho niềm tin vào tương lai của quê hương đất nước, ước nguyện của những người lính khi tham gia chiến đấu chính là tiêu diệt kẻ thù ra khỏi bờ cõi của đất nước ta. Những đêm trong rừng Trường Sơn giữa rừng thiêng nước độc, cuộc sống vô cùng kham khổ. Những người lính của chúng ta chia sẻ với nhau từng ngụm nước, từng miếng lương khô, rồi cùng đắp chung chăn gối, thể hiện một tình cảm gắn bó thân thiết hơn cả người thân ruột thịt trong gia đình.

Trong cuộc kháng chiến nhiều gian khổ đó, biết bao nhiêu chiến sĩ của chúng ta đã phải hy sinh, nằm xuống nơi chiến trường, khiến cho đồng đội vô cùng đau xót. Những người lính vào sinh ra tử có nhau họ nhanh chóng hiểu được nỗi lòng, cũng như gắn bó trong một tình bạn đẹp. Những người lính trở thành những người bạn tri kỷ cùng trải qua sinh tử.

Nhà thơ Chính Hữu đã xây dựng một tình đồng đội, đồng chí vô cùng thiêng liêng, cao cả về những người lính nông dân áo vải, những người có tấm lòng cao cả, gan dạ luôn sẵn sàng hy sinh tất cả vì quê hương đất nước của mình.

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày, Gian nhà không mặc kệ gió lung lay, Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”.

Trong những câu thơ này thể hiện sự quyết tâm ra đi của những người lính, khi các anh quyết tâm tham gia đánh trận, bỏ lại quê hương của mình những người thân, những công việc còn dang dở chưa kịp làm tất cả những điều chưa an tâm, cũng thành an tâm để các anh có thể lên đường làm công việc cao cả của mình là bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ.

Những câu thơ này như tái hiện lại hình ảnh quê hương Việt Nam những năm đầu kháng chiến có nhiều gian khổ, nghèo khó khi bị thực dân Pháp và phát xít nhật thống trị bóc lột, quê hương chúng ta trở nên nghèo khổ, người nông dân chịu cảnh một cổ hai, ba, tầng lớp bóc lột không có lối thoát, khiến cho những người trai tráng quyết tâm bỏ lại sau lưng tham gia chiến đấu đánh đuổi kẻ thù đòi lại quyền tự do.

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi. Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá chân không giày… Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Trong khổ thơ này tác giả Chính Hữu đã tái hiện lại những nỗi khổ, sự gian nan của người lính khi tham gia chiến đấu. Họ phải đối diện với những khó khăn về cơ sở vật chất, thiếu thốn đủ mọi đường khi tham gia chiến đấu, sống trong rừng Trường Sơn chịu đựng những cơn sốt rét rừng, rồi rất nhiều căn bệnh khác.

Những người lính áo rách quần có nhiều mảnh vá, quần áo không đủ ấm, lương thực thiếu thốn nhưng họ không vì thế mà nản chí, hay thiếu đi tình cảm dành cho nhau. Những người lính trong khó khăn càng thấm thía tình bạn, tình đồng chí đồng đội đáng quý như thế nào. Khi một người trong binh đoàn bị ốm thì những người còn lại đều buồn khổ. Họ thương nhau truyền hơi ấm cho nhau qua những cái nắm tay xiết chặt, thể hiện một tình đồng đội thiêng liêng cao cả.

Hoàn cảnh sống càng khắc nghiệt, càng nghiệt ngã thì tình cảm gắn bó giữa người lính càng trở nên bền chặt keo sơn, gần gũi hơn bao giờ hết. Bởi họ là những người có trái tim ấm áp có chung một mục tiêu lý tưởng sống giống như nhau.

“Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo”.

Trong đoạn kết của bài thơ “Đồng Chí” thể hiện hình ảnh những người lính vô cùng hiên ngang anh dũng. Họ cùng đứng bên nhau chờ giặc trong tư thế chủ động chiến đấu, hiên ngang không hê run sợ. Dù kẻ thù có lớn mạnh thế nào thì tinh thần yêu nước của những người lính cũng vượt qua tất cả.

Trong những câu thơ này nhà thơ Chính Hữu cũng xây dựng một bức tranh thiên nhiên và con người vô cùng lãng mạn, đậm chất trữ tình giữa cuộc chiến sinh tử toàn mùi khói đạn, chết chóc hình ảnh “Đầu súng trăng treo” hiện lên vô cùng tươi đẹp thể hiện sự tinh tế của tác giả. Sự đối lập giữa ngọn súng một vũ khí đại diện cho cái chết, và ánh trăng một thứ đậm chất trữ tình đứng cạnh nhau làm nên một bức tranh độc đáo nên thơ.

Bài thơ “Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp giản dị của người lính những người nông dân chân chất hiền lành sẵn sàng hy sinh tất cả để tham gia chiến đấu với tinh thần quả cảm anh dũng hiên ngang. Ngôn ngữ trong bài thơ vô cùng mộc mạc, giản dị gần gũi với người đọc chính là một thành công của Chính Hữu mang lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc về hình ảnh những người lính bình thường nhưng không tầm thường.

Cảm nhận về bài thơ Đồng Chí – Bài làm 5

Nhà thơ Chính Hữu có những sáng tác nổi bật trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ của ông chân thực, giản dị và thể hiện tình đồng chí, đồng đội sâu sắc qua bài thơ “Đồng chí”. Qua hình ảnh người bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tác giả đã làm nổi bật tình đồng chí đồng đội thiêng liêng, gắn bó khăng khít.

Khổ thơ đầu, tác giả đã nêu ra hoàn cảnh xuất thân của những người lính:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Mỗi người lính có các xuất thân khác nhau, từ những vùng quê gian khổ: “nước mặt đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Tác giả đã sử dụng các cụm từ miêu tả những vùng quê nghèo khó, vốn là xuất thân của những người lính. Từ việc đồng cảnh ngộ, những người lính đã có sự gặp gỡ nhau khi cùng chung lý tưởng:

“Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ

Đồng chí”

Những người lính, từ những phương trời xa lạ, nhưng do cùng chung lý tưởng chiến đấu, khao khát độc lập tự do, đã lên đường nhập ngũ. Và rồi họ gặp nhau, trở thành những đồng đội gắn bó, đồng hành cùng nhau trên những chặng đường chiến đấu. Họ chia sẻ cho nhau những khó khăn, thiếu thốn của chặng đường hành quân “đêm rét chung chăn”, họ gắn bó keo sơn, chia sẻ đắng cay ngọt bùi. Và những tình cảm chân thật ấy đã gắn bó những người kính sát lại với nhau hơn, để trở thành tình cảm thiêng liêng: tình đồng chí. Hai từ “Đồng chí” được tách ra thành hẳn một câu thơ, như một tiếng gọi thân thương, thể hiện tình cảm gắn bó thân thiết, đáng quý.

Những câu thơ tiếp theo gợi ra những hình ảnh thân thuộc cùng những tình cảm giản dị của những người lính:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Những người lính ra trận, họ phải để lại đằng sau những gia đình nhỏ, để hướng đến sự nghiệp chiến đấu chung. Từ “mặc kệ” không phải là phó mặc, mà là một tâm thế ra đi dứt khoát, một ý chí kiên định để hướng đến sự nghiệp cách mạng chung. Hình ảnh quê hương “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” chính là những tấm lòng chân thực, mong ngóng và thương nhớ, là hậu phương vững chắc cho người lính yên tâm ra trận.

Những người lính gắn bó keo sơn, chia sẻ ngọt bùi trong hành quân và chiến đấu:

“Tôi với anh biết tưng cơn ớn lạnh

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Những trận sốt rét rừng, những thiếu thốn về mặt vật chất của cuộc kháng chiến “áo rách vai”, “quần vài mảnh vá” không làm nhụt chí của những người lính. Đó còn là tiền đề để họ vững vàng hơn ý chí trong chiến đấu. Hình ảnh cái nắm tay như là một sự chia sẻ, đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi với nhau. Dù khó khăn họ vẫn nở nụ cười, như chia sẻ khó khăn với nhau, động viên nhau để cùng nhau vượt qua mọi thiếu thốn.

Hình ảnh thơ cuối vừa hiện thực vừa lãng mạn:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Hiện thực cuộc khánh chiến còn rất nhiều khó khăn “rừng hoang sương muối”. Nhưng người lính vẫn kề vai sát cánh bên nhau. Họ với tư thế chủ động “chờ giặc tới”, với tư thế sẵn sàng chiến đấu trong mọi hoàn cảnh. Và đặc biệt nhất là hình ảnh “Đầu súng trăng treo’ vừa hiện thực, vừa lãng mạn. Hình ảnh “súng” tượng trưng cho hiện thực chiến tranh, sự khắc nghiệt. Hình ảnh “trăng’ tượng trưng cho hòa bình, cho lãng mạn. Trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ khắc nghiệt, những người lính vẫn kề vai sát cánh bên nhau, vẫn có tư tưởng và tâm hồn lãng mạn. Có khó khăn mà không bi lụy, vẫn vượt lên trên hoàn cảnh và tư thế sẵn sàng để chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã thể hiện được hiện thực khắc nghiệt của cuộc chiến tranh, đồng thời ca ngợi tình cảm đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn, thân thiết. Qua đó, ta cảm nhận được phẩm chất đáng quý của những người bộ đọi cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp.

Cảm Nghĩ Về Bài Đồng Chí

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ Ruộng nương anh gửi bạn thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo

Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình – để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.

Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:

Lũ chúng tôi Bọn người tứ xứ Gặp nhau hồi chưa biết chữ Quen nhau từ buổi Súng bắn chưa quen Quân sự mươi bài một, hai

Lòng vẫn cười vui kháng chiến …

Súng bên súng, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ

Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lí tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:

Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỉ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỉ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.

Năm mươi sáu ngày đêm bom gầm pháo dội Ta mới hiểu thế nào là đồng đội Là hớp nước uống chung Nắm cơm bẻ nửa Là chia nhau một trưa nắng, một chiều mưa Chia khắp anh em một mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp

Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kì giác ngộ lí tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hi sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời đIểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết …

Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) – ở buổi đầu kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.

Áo anh rách vai Quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buốt giá Chân không giày Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí- ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau dó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “qui luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỉ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Nếu đầy đủ thương nhau đã quí. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quí hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.

Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo

Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:

Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay- rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng,bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hi sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.

Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến chống Pháp một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.