Top 9 # Xác Định Câu Phủ Định Trong Bài Thơ Ngắm Trăng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Trong Bài Thơ Ngắm Trăng Của Hồ Chí Minh Có Một Thế Giới Trăng Đầy Lãng Mạn. Hãy Làm Rõ Nhận Định Trên

Trong bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh có một thế giới trăng đầy lãng mạn. Hãy làm rõ nhận định trên

Bài thơ Ngắm trăng nằm trước chùm thơ “Trung thu” của Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết vào mùa thu năm 1942, đó là bài số 21 trong “Nhật kí trong tù” của Bác.

Bài thơ viết về cảnh ngấm trăng nhưng không phải ngắm trăng một cách bình thường mà nhìn ánh trăng từ trong ngục. Từ tư thế ngắm trăng ấy đã toát lên một vẻ đẹp thanh cao trong tâm hồn Bác, một phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng trước cảnh đẹp thiên nhiên.

Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ của nhà thơ:

Trong tù không rượu củng không hoa.

Bị giam cầm trong nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch, sự thiếu thốn trăm bề là điều tất nhiên. Điều này không nói ra thì có lẽ chúng ta cũng hình dung được. Nhưng sự thiếu thốn ấy không ngăn nổi tâm hồn thơ của Bác, không làm cho Bác buồn lòng:

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.

Ánh trăng, rượu, hoa là những thứ đi liền với tâm hồn thi sĩ. Rất nhiều bài thơ lấy cảm hứng từ những thú vui này. Đối với Bác, chung quanh chỉ có ánh trăng soi từ bên ngoài qua song sắt. Trướccảnh đẹp nhưng lại thiếu rượu và hoa, điều này đã làm mất đi một phần thi hứng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu chưa đề cập đến ánh trăng nhưng đọc lên như đã hiện hữu một ánh trăng. Ánh trăng đó chính là ánh sáng trong tâm hồn Bác, soi vào một đêm tối tăm của đất nước. Hai câu thơ sau ánh trăng mới thật sự xuất hiện và bao trùm không gian chốn ngục thất, ánh trăng trở thành “nhân vật” chính của đêm nay:

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Điểm nhấn của bài thơ chính là ở hai câu thơ cuối. Không chỉ có một hình ảnh mà là hai hình ảnh hòa quyện vào nhau. Sự hòa quyện đến mức đồng điệu và tưởng chừng như chỉ có một. Trong các câu thơ chữ Hán thường có hai hình ảnh gắn liền với nhau, chẳng hạn như nhân – nguyệt hoặc nguyệt – thi gia. Trong bài thơ của Bác Hồ cũng thế. Câu thứ ba Bác vẫn còn xưng Người nhưng câu cuối đã thành nhà thơ. Câu thơ mang ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc. Từ trong ngục tối, nơi chỉ có bốn bức tường giam, không có bất kì thú vui nào, người tù nhìn ánh trăng soi từ cửa sổ. Đó là hình ảnh rất bình thường nhưng đối với Bác nó trở thành một niềm vui, một dịp may hiếm có. Từ “ngắm” thể hiện vẻ say sưa và một sự thưởng thức, thưởng thức cái đẹp, cái tao nhã của thiên nhiên. Không chỉ diễn ra một chiều ngắm. Ánh trăng đã được nhân hóa để nhòm lại nhà thơ. Vầng trăng bây giờ không còn là một vật vô tri vô giác nữa mà đã có tâm hồn, một tâm hồn đồng điệu với tâm hồn Bác. Bác và trăng lặng lẽ nhìn nhau, cảm thông, chia sẻ với mối tình tri âm, tri kỉ. Hai câu thơ đối nhau, ngôn ngữ và hình ảnh cân xứng, hài hòa. Trăng và nhà thơ dù bị song sắt ngục tù chia cách nhưng vẫn rất gần gũi và ân tình. Đọc hai câu thơ chúng ta thấy ánh trăng như tràn ngập, như bừng sáng cả không gian bao la; khung cảnh không còn là ngục thất mà là một thế giới bao la với ánh trăng chiếu sang và tâm hồn thi sĩ bay bổng. Có thể nói đây là hai câu thơ hay nhất và đẹp nhất vềánh trăng trong thơ Bác. Tư thế ngắm trăng của Hồ Chí Minh đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp của Bác, đồng thời thể hiện tinh thần lạc quan của Người dù ở vào hoàn cảnh khó khăn nhất. Chúng ta còn bắt gặp nhiều bài thơ khác thể hiện được ý chí, nghị lực và tinh thần lạc quan của Bácnhưng đây là bài thơ để lại nhiều ấn tượng nhất. Bài thơ vừa thể hiện tình yêu thiên nhiên, vừa biểu lộ một tâm hồn thanh cao, một phong thái ung dung tự tại, vừa thể hiện khát vọng tự do. Nó là hình ảnh tượng trưng cho một tâm thế sẵn sàng.Như Bác đã nói: “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”.

Nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét rằng “Thơ Bác đầy trăng” quả thật không sai vì trong Nhật kí trong tù có đến 7 bài thơ nhắc đến trăng.

Đề 1. Giới thiệu về tập thơ Nhật kỷ trong tù của Hồ Chí Minh.

Đề 2. Tinh thần lạc quan của Hồ Chí Minh thể hiện như thế nào quabài thơ Ngắm trăng?

Đề 3. Phân tích bài thơ Ngắm trăng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đề 4. Cảm nhận về bài thơ Ngắm trăng trong Nhật kí trong tù của Bác Hồ.

Nguồn: Vietvanhoctro.com

Văn Mẫu Cảm Nghĩ Về Nhận Định ‘Thơ Bác Đầy Trăng’

Văn mẫu Cảm nghĩ về nhận định ‘Thơ Bác đầy trăng’

Mọi ý kiến đóng góp xin gửi vào hòm thư: [email protected]

N hà văn Hoài Thanh có nói: “Thơ Bác đầy trăng”. Thật vậy, Bác đã viết nhiều bài

thơ trăng. Trong số đó, bài “Ngắm trăng” là bài thơ tuyệt tác, mang phong vị

Đường thi, được nhiều

người ưa thích.

NGẮM TRĂNG

“Trong tù không rượu cũng

không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó

hững hờ.

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Bài thơ rút trong “Nhật ký trong tù”; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một

hoàn cảnh đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943 khi Bác Hồ bị bọn

Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng

trong nhà tù, qua đó nói lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết.

Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh,

và đó cũng là sự thật “Trong tù không rượu cúng không hoa” thế mà Bác vẫn thấy

lòng mình bối rối, vô cùng xúc động trước vầng tăng xuất hiện trước cửa ngục đêm

nay. Một niềm vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi.Trăng, hoa, rượu là

ba thú vui tao nhã của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hản

rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên

nhiên.

Câu thơ bình dị mà dồi dào cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình

trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế

mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng trăng?

“Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”.

Sự tự ý thức về cảnh ngộ đã tạo cho tư thế ngắm trăng của người tù một ý nghia

sâu sắc hơn các cuộc ngắm trăng, thưởng trăng thường tình. Qua song sắt nhà tù,

Bác ngắm vầng trăng đẹp. Người tù ngắm trăng với tất cả tình yêu trăng, với một

tâm thế “vượt ngục” đích thực? Song sắt nhà tù không thể nào giam hãm được tinh

thần người tù có bản lĩnh phi thường như Bác:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ”…

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm

thư thái. Song sắt nhà tù tỉnh Quảng Tây không thể nào ngăn cách được người tù

và vầng trăng! Máu và bạo lực không thể nào dìm được chân lý, vì người tù là một

thi nhân, một chiến sĩ vĩ đại tuy “thân thể ở trong lao” nhưng “tinh thần” ở ngoài

lao”

Câu thứ tư nói về vầng trăng. Trăng có nét mặt, có ánh mắt và tâm tư. Trăng được

nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỷ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối

thăm Bác. Trăng ái ngại nhìn Bác, cảm động không nói nên lời, Trăng và Bác tri

ngộ “đối diện đàm tâm”, cảm thông nhau qua ánh mắt. Hai câu 3 và 4 được cấu

trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hoà giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình

ảnh và ý thơ:

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”.

Ta thấy: “Nhân, Nguyệt” rồi lại “Nguyệt, Thi gia” ở hai đầu câu thơ và cái song sắt

nhà tù chắn ở giữa. Trăng và người tù tâm sự với nhau qua cái song sắt nhà tù đáng

sợ ấy. Khoảnh khắc giao cảm giữa thiên nhiên và con người xuất hiện một sự hóa

thân kỳ diệu: “Tù nhân” đã biến thành thi gia. Lời thơ đẹp đầy ý vị. Nó biểu hiện

một tư thế ngắm trăng hiếm thấy. Tư thế ấy chính là phong thái ung dung, tự tại,

lạc quan yêu đời, yêu tự do. “Ngắm trăng” là một bài thơ trữ tình đặc sắc. Bài thơ

không hề có một chữ “thép” nào mà vẫn sáng ngời chất “thép”. Trong gian khổ tù

đầy, tâm hồn Bác vẫn có những giây phút thảnh thơi, tự do ngắm trăng, thưởng

trăng.

Bác không chỉ ngắm trăng trong tù. Bác còn có biết bao vần thơ đặc sắc nói về

trăng và niềm vui ngắm trăng: Ngắm trăng trung thu, ngắm trăng ngàn Việt Bắc, đi

thuyền ngắm trăng,… Túi thơ của Bác đầy trăng: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ…”,

“… Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền…”, “Sao đưa thuyền chạy, thuyền

chờ trăng thưo…” Trăng tròn, trăg sáng… xuất hiện trong thơ Bác vì Bác là một

nhà thơ giàu tình yêu thiên nhiên, vì Bác là một chiến sĩ giàu tình yêu đất nước quê

hương. Bác đã tô điểm cho nền thi ca dân tộc một số bài thơ trăng đẹp.

Đọc bài thơ tứ tuyệt “Ngắm trăng” này, ta được thưởng một thi phẩm mang vẻ đẹp

cổ kính, hoa lệ. Bác đã kế thừa thơ ca dân tộc, những bài ca dao ói về trăng làng

quê thôn dã, trăng thanh nơi Côn Sơn của Nguyễn Trãi, trăng thề nguyền, trăng

chia ly, trăng đoàn tụ, trăng Truyện Kiều. “Song thưa để mặc bóng trăng vào”…

của Tam Nguyên Yên Đổ, v.v….

Uống rượu, ngắm trăng là cái thú thanh cao của các tao nhân mặc khách xưa, nay –

“Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” (Nguyễn Trãi). Ngắm trăng, thưởng trăng

đối với Bác Hồ là một nét đẹp của tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự do. Tự do

cho con người. Tự do để tận hưởng mọi vẻ đẹp thiên nhiên của quê hương xứ sở.

Đó là cảm nhận của nhiều người khi đọc bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

Mùa Xuân Trong Thơ Của Các Tác Giả Nam Định

Mùa xuân trong thơ của các tác giả Nam Định

Mùa xuân là đề tài vô tận của thi ca. Bằng cảm xúc, sự rung động của mình, bao thế hệ làm thơ đã khắc hoạ những hình ảnh đẹp của cảnh sắc mùa xuân qua những vần thơ. Qua những bài thơ về mùa xuân, các nhà thơ đã thổi vào mùa xuân sức sống, gợi lên trong lòng người đọc những xúc động, bâng khuâng…

Nam Định tự hào có nhiều nhà thơ nổi tiếng sống trong thời kỳ đầu phong trào Thơ mới  như: Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ… Trong đó, Nguyễn Bính được xem là “Thi sĩ của mùa xuân” với các bài thơ: “Xuân đến”, “Thơ xuân”, “Mùa xuân xanh”, “Tết của mẹ tôi”… Đến giai đoạn sau này, mùa xuân vẫn như mạch ngầm chảy mãi để ông viết nên những bài thơ: “Thư Tết”, “Xuân nhớ miền Nam”, “Tiếng trống đêm xuân”… Cảnh vật thiên nhiên, đất trời giao mùa, luôn làm bật lên những cảm xúc tươi mới trong tâm hồn thi sĩ Nguyễn Bính. Đối với ông, bao nhiêu tuổi đời là bấy nhiêu tuổi xuân, mỗi mùa xuân qua các tác phẩm thơ lại hiện lên đa sắc, muôn hình muôn vẻ. Nói đến mùa xuân của làng quê, thi sĩ không thể không nói đến cái mưa xuân nhè nhẹ làm rộn rã con tim yêu đương của những người đang yêu. Tác phẩm “Mưa xuân” của Nguyễn Bính là câu chuyện tình cảm của đôi trai gái với những hò hẹn: “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ bảo “Thôn Đoài hát tối nay”. Mùa xuân như có “duyên nợ” với Nguyễn Bính, bởi trong tình yêu tha thiết Nguyễn Bính dành cho con người, thiên nhiên, cuộc sống, từ ngõ xóm, đường làng, hàng cây, ruộng vườn, bến sông, con đò đều bừng tỉnh, dập dìu đầy sức xuân. Mùa xuân trong tác phẩm “Xuân về” được ông khắc hoạ thật sống động, người và cảnh thật gần gũi mà cũng thật lung linh, kỳ ảo. Những vần thơ mang những hạt mưa xuân của ngày hội làng khi hoa xoan rụng ngập tràn ngõ xóm giúp người đọc lạc vào cõi yên bình trong trẻo: “Đã thấy xuân về với gió Đông/ Với trên màu má gái chưa chồng/ Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm/ Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong”. 

Nếu như Nguyễn Bính được xem là “Thi sĩ của mùa xuân” thì Đoàn Văn Cừ được coi là “Nhà thơ thôn ca”. Những tác phẩm viết về mùa xuân của ông là những hình ảnh mộc mạc, giản dị của thiên nhiên và đời sống thôn quê với những làn điệu chèo, nếp nhà tranh, xóm nhỏ, bữa cơm gia đình đã gắn liền vào tiềm thức của người Việt. Tiêu biểu là các bài thơ: “Chợ Tết”, “Đám cưới mùa xuân”, “Đám hội”, “Xuân xưa và nay”, “Xuân quê bà”… Với niềm yêu đời, cái nhìn bao dung, nhân ái, bài thơ “Chợ tết” là một bức tranh về khung cảnh thiên nhiên chan hoà, sống động, lung linh với đủ các sắc màu. Đoàn Văn Cừ đã thổi hồn vào thiên nhiên, biến chúng thành những sinh thể sống: “Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh”. Và tiếp theo là cảnh nhộn nhịp phiên chợ hiện rõ dưới bầu trời đầy ánh sáng: “Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc/ Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon/ Vài cụ già chống gậy bước lom khom/ Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ/ Thằng em bé/ nép đầu bên yếm mẹ/ Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu/ Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau”. Trong thơ Đoàn Văn Cừ luôn đề cao “thi trung hữu hoạ”. Bức tranh nào của ông cũng đầy nhựa sống, là một thế giới linh hoạt. Bài thơ “Đám cưới mùa xuân” cũng là một bức tranh như thế: “Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng/ Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh/ Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh/ Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới”. Thơ của Đoàn Văn Cừ không chỉ là những bức tranh đầy màu sắc mà có thể còn được coi những “cuốn phim” sống động, do nhà thơ làm đạo diễn. Nhà thơ đã sắp xếp từng nhân vật, dàn từng cảnh trí cho “cuốn phim” của mình sinh động, hấp dẫn. 

Lướt qua các trang thơ xuân của các tác giả Nam Định, ngoài những thế hệ nhà thơ lớp trước với những tác phẩm gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của họ thì ngày nay, nhiều nhà thơ đã có những tác phẩm viết về mùa xuân rất thành công. Tiêu biểu là các tác giả: Phạm Trọng Thanh, Trần Đắc Trung, Phạm Trường Thi, Nguyễn Hữu Tình, Bùi Công Tường, Vũ Minh Am, Đỗ Phú Nhuận, Nguyễn Chí Dũng, Nguyễn Hồng Vinh, Hoàng Trung Hiếu, Nguyễn Thấn, Phạm Ngọc Quang, Trần Văn Lợi… Mùa xuân là mùa của hội làng, là nét đẹp văn hóa truyền thống đặc sắc của quê hương. Sau một năm lao động vất vả, hội làng là dịp để mọi người dân quê tạm gác lại những lo toan, hòa mình vào không khí sum vầy và những sinh hoạt cộng đồng. Nguyễn Hồng Vinh đã rất thấu hiểu tâm tư, nỗi niềm của người dân khi viết những câu thơ đầy náo nức trong bài thơ “Đi chợ tầm xuân” với những ý thơ hay, liên tưởng đẹp, lãng mạn mà cũng hiện thực: “Chợ Viềng, năm có một phiên/ Trăm làng mồng tám tháng giêng hẹn hò/ Dập dìu người bán, người mua/ Dao với cuốc, giống cây vừa độ xuân”… Cũng chìm vào những suy tư, cảm nhận cái đẹp của xuân quê nhưng cảm nhận của nhà thơ Phạm Trọng Thanh trong tác phẩm “Thành Nam có một gác văn” trở nên sâu lắng hơn so với không khí của ngày hội các tác phẩm khác. Nhà thơ đã hóa thân vào những làn mưa xuân trên bến đò xưa cùng những âm thanh của tiếng gọi đò từ một thời xa vắng và làm cho tiếng gọi đò bỗng trở nên ảo diệu, động cả đất trời: “Gọi đò gọi cả nhân gian/ Câu thơ sông Lấp xanh làn mưa xuân”… Trần Văn Lợi là gương mặt thơ trẻ. Cảm xúc mùa xuân đã tạo thi hứng cho tác giả vẽ nên cảnh xuân vùng quê lãng mạn, thi vị và sâu lắng ghi dấu trong ký ức một thời. Mùa xuân trong thơ Trần Văn Lợi phần lớn là xuân ở các làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ gắn với những vẻ đẹp của những cô thôn nữ mộc mạc, thanh khiết. Tiêu biểu là bài thơ “Mùa xuân vào phố” với những ý thơ đầy cảm nhận: “Chị gánh mùa xuân đi dọc tháng ngày/ Những giò hoa chia niềm vui khắp ngả/ Trên vỉa hè bê tông bon chen ồn ã/ Hoa đến với người bằng sự lặng im… Mùa xuân nở bừng trên con đường của chị/ Hoa vừa đi, vừa thủ thỉ toả hương…”. Tác phẩm “Lặng lẽ” đã khắc hoạ được vẻ đẹp người thôn nữ được ví như những nét xuân mới chớm, chuyên cần mà khiêm nhường, âm thầm chịu đựng mà cứng cỏi, tin yêu, đẹp như cây mạ chiêm chờ đón nắng xuân: “Lặng lẽ đồng xa, đứng dầm chân/ Non tơ lúa bén nết chuyên cần/ Em như cây mạ, lòng đang Tết/ Rễ cuối mùa đông, nõn đã xuân…”.

Ngày xuân, được ngắm hoa lá khoe sắc cùng đất trời nhân gian, lắng nghe tâm hồn mình qua những vần thơ xuân, mỗi người đọc chúng ta ai cũng bùi ngùi xúc động trước những sâu thẳm nỗi lòng mỗi tác giả, những rung cảm, tình yêu tha thiết với mùa xuân. Mỗi nhà thơ, mỗi tâm hồn đều gửi gắm nỗi niềm của cuộc đời vào mỗi tác phẩm của mình. Với cái nhìn tinh tế của các tác giả Nam Định đã nêu bật được vẻ đẹp của mùa xuân, đó là vẻ đẹp của con người hoà cùng đất trời thiên nhiên, cảnh vật của mùa xuân. Hương sắc của mùa xuân trong các tác phẩm hiện lên không ồn ào, náo nhiệt, không khoa trương, ầm ĩ, mà chân thành và dung dị, đằm thắm, đẹp một cách mặn mà, lan tỏa trường tồn với thời gian. Qua nhiều thế hệ, sức sống mãnh liệt của thơ ca Nam Định vẫn trường tồn cùng mùa xuân./.

Bài và ảnh: Khánh Dũng

Cảm Nhận Bài Thơ Ngắm Trăng

Những trung tâm gia sư uy tín ở tphcm nhận ra Trăng từ lâu đã trở thành người bạn tri âm với nhà thơ. Trăng mang nỗi niềm nhớ cố hương vào thơ của Lí Bạch. Trăng mang niềm thương cảm Nho sĩ nghèo trong thơ Đỗ Phủ. Và trăng trong thơ Hồ Chí Minh là sự hòa quyện giữa chất thép và chất thơ. Ánh trăng muôn đời chỉ có một thế nhưng đi vào thế giới thi ca lại hiện lên muôn nghìn hình thái. Bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh thể hiện ánh trăng tri kỉ, ánh trăng bầu bạn cùng con người trong những ngày gian lao làm cách mạng.

Ngắm trăng trích trong tập thơ Nhật kí trong tù. Bài thơ được sáng tác khi Bác Hồ bị giam vào nhà ngục Tĩnh Tây do bị chính quyền Trung Quốc nghi là gián điệp. Cuộc sống trong tù thiếu thốn, khốn khổ. Cách mạng Việt Nam lại vào thời kì sục sôi nhất, căng thẳng nhất. Trong lòng Bác hẳn nhiều bộn bề, lo toan. Trong hoàn cảnh ấy, nơi ngục tù tối tăm lại ánh lên một vầng trăng dịu nhẹ. Ấy là vầng trăng suy tư, vầng trăng của tâm hồn người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn thi nhân.

“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà”

(Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ)

Trung tâm gia sư tphcm thấy hoàn cảnh là giam cầm, trói buộc, kìm hãm con người. Nhưng sức sống vẫn vô hạn, vẫn rạo rực, dồi dào chỉ trực biến thành hành động. Con người có bản lĩnh không bao giờ đầu hàng trước số phận. Bút pháp đường thi nói “không” để chỉ “có” là cách thể hiện bản lĩnh của nhân vật trữ tình. “Không rượu”, “không hoa” – không có cảnh đẹp, chất liệu để làm thơ – nhưng một bài thơ về trăng vẫn ra đời. Bởi tiếng thơ đâu phải chỉ từ ngoại cảnh, mà xuất phát từ trong tâm hồn con người. Cái ung dung của người tù thể hiện trong việc ngắm trăng trong cảnh tù. Thường để làm thơ, thi nhân xưa phải chuẩn bị hoa, rượu, bạn hữu. Không khí ấy phàm tục đến khô khốc, chẳng chút thuận lợi nào chứ nói gì đến thanh tao.

Gia sư tphcm thấy bài thơ bắt đầu bằng nhiều cái “không”. Trong cái không ấy ngụ ý cái “có” – tấm lòng con người rung cảm trước thiên nhiên. Câu thơ thứ hai một tiếng thốt ngỡ ngàng như phát hiện ra một cảnh tuyệt sắc. Không có rượu và hoa thì ánh trăng cũng không hề tiêu bớt đi vẻ đẹp. Ngược lại nó càng khiến ánh trăng thêm sáng tỏ, chiếu soi vào tận nơi của nhà thơ. Câu thơ ấm ủ sự tình tứ, rạo rực, muốn yêu thương, chan hòa, thưởng thức ánh trăng. Xưa kia thi nhân đối diện với ánh trăng như gặp người tri kỉ: “Cửu bôi yêu minh nguyệt/ Đối ảnh thành tam nhân.” (Lí Bạch). Nhân vật trữ tình trong Ngắm trăng lại chỉ lặng lẽ; ánh trăng cũng lặng lẽ.

Cảnh thưởng trăng thu lại trong một hành động không hơi không tiếng, người thưởng trăng qua khung cửa sổ và trăng từ khe cửa nhìn nhà thơ:

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tong song kích khan thi gia.

(Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm cửa sổ ngắm nhà thơ.)

Gia sư luyện thi đại học tphcm nhận thấy nếu phân tích theo nguyên tác của bài thơ, “hướng” và “tòng” vẫn thể hiện sự im lặng. Còn “khán” là cử động của đôi mắt, không dùng một cử chỉ cơ thể nào khác. Cái nhìn ấy chứa đựng sự giao cảm với cái đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của tâm hồn lắng đọng bao nhiêu âu lo để trở nên thuần khiết, trong sáng, hướng hoàn toàn vào nghệ thuật. Chính vì thế, người tù đã trở thành thi nhân. Lao ngục đã không còn hiện diện, mở đầu bài thơ là “ngục” nhưng kết thúc bài thơ lại là hình ảnh một con người tự do, bình thản thưởng thức ánh trăng. Những thứ xấu xa, dơ bẩn đã bị gạt bỏ hết thảy, chỉ còn lại là trái tim biết rung cảm với thiên nhiên.

Gia sư tiếng anh tại nhà tphcm thấy câu thơ sóng đôi hai hình ảnh “song nhân” và “nguyệt”, “song tiền” với “song kích”, “minh nguyệt” và “thi gia” cùng hòa tan trong một cái nhìn. Câu thơ đăng đối nhịp nhàng cả về thanh điệu lẫn hình ảnh. Trăng xứng với người, người thấu hiểu trăng. Tâm hồn người nhờ trăng mà càng sáng, trăng nhờ người mới trở thành thơ và bất tử với thời gian. Và bên nhau, trăng sáng đượm chất thơ và tâm hồn người cũng ngập tràn ánh trăng. Hai mà một, hòa quyện cùng nhau trong cái nhìn lặng lẽ.

Xưa nay, nói về trăng có biết bao nhiêu lời thơ đẹp. Ánh trăng của Bác Hồ lại chứa đựng vẻ đẹp ung dung, bản lĩnh bất khuất. Dù trong hoàn cảnh gong xiềng, ngục tù, người vẫn dành tấm lòng để thưởng thức và trân trọng vẻ đẹp thiên nhiên. Nếu trăng tượng trưng cho những gì tốt đẹp, mơ ước lãng mạn thì ngục tù là bao khổ đau, trói buộc. Trong tù mà ngắm được trăng, đang trong cơn bĩ cực mà vẫn thấy được ánh sáng của niềm tin. Đó là phong thái của người chiến sĩ hòa quyện cùng tâm hồn của thi nhân tạo nên một chất thép lãng mạn, một nhân sinh quan tích cực trong thơ Bác.

Tham khảo từ khóa tìm kiếm bài viết từ google :

cảm nhận bài thơ ngắm trăng

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn nhất

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng ngắn gọn

cảm nhận bài thơ ngắm trăng ngắn

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng của bác

cảm nhận về bài thơ ngắm trăng hay nhất

cảm nhận về tình yêu thiên nhiên của bác qua bài thơ ngắm trăng

Các bài viết khác…