Top 10 # Xem Bài Thơ Núi Đôi Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Cô Gái Trong Bài Thơ “Núi Đôi”

Ông Trịnh Khanh và vợ, bà Phan Thị Khuyến trong ngày mừng thọ 70 tuổi.

Năm ấy, Ban liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 238 (Quân khu Việt Bắc) tổ chức buổi gặp mặt gia đình 81 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống Pháp tại Núi Đôi, xã Phù Linh (Sóc Sơn, Hà Nội)). Một cụ già gần 90 tuổi, râu tóc bạc phơ, nắm tay một ông lão hơn 70 tuổi, giơ lên cao, rồi dõng dạc tuyên bố: Đây là đồng chí Trịnh Khanh, chồng của nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc và cũng là chàng trai nguyên mẫu trong bài thơ “Núi Đôi” nổi tiếng của Vũ Cao…

Năm ấy, Ban liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 238 (Quân khu Việt Bắc) tổ chức buổi gặp mặt gia đình 81 chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống Pháp tại Núi Đôi, xã Phù Linh (Sóc Sơn, Hà Nội)). Một cụ già gần 90 tuổi, râu tóc bạc phơ, nắm tay một ông lão hơn 70 tuổi, giơ lên cao, rồi dõng dạc tuyên bố: Đây là đồng chí Trịnh Khanh, chồng của nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc và cũng là chàng trai nguyên mẫu trong bài thơ “Núi Đôi” nổi tiếng của Vũ Cao…

…Năm 1947, vừa tròn 17 tuổi, Trịnh Khanh xung phong vào bộ đội, trở thành chiến sĩ đại đội Trần Quốc Tuấn, đóng quân tại xã Bắc Sơn (Sóc Sơn). Một hôm, chiến sĩ Trần Nhu (biệt danh là Nhu bẻm mép), quê ở Hà Tây, nét mặt hớn hở đến gặp Khanh, bảo:

– Cậu có một cô gái đồng hương tên là Bắc rất xinh, hiện đang theo học tại lớp y tá. Nếu muốn “cưa” thì bọn mình sẽ giúp.

Nói vui thế nhưng phải đến gần hai năm sau, Khanh mới gặp lại Bắc khi cô tiếp tục theo học lớp y tá của tỉnh Vĩnh Phúc. Họ hẹn ước khi nào thắng trận ở Bắc Hồng (Đông Anh) sẽ về tổ chức đám cưới. Cuối năm 1953, trước lúc bước vào trận đánh tiêu diệt quân địch càn quét ở xã Bắc Hồng (Đông Anh), chính trị viên Nguyễn Viết Bát ghé sát tai Khanh nói: “Đánh xong trận này, tớ sẽ giải quyết cho cậu nghỉ ba ngày ra vùng tự do để cưới vợ”. Vốn đã từng làm công tác văn thư ở đại đội chuyên “nói có sách, mách có chứng”, Khanh liền rút giấy bút ở trong túi ra và tự tay thảo vội bức “công văn” ngắn gọn: “… Đại đội Trần Quốc Tuấn đồng ý giải quyết cho đồng chí Trịnh Khanh về quê tổ chức lễ cưới với cô Trần Thị Bắc, đề nghị gia đình và chính quyền địa phương tạo điều kiện giúp đỡ đồng chí Khanh hoàn thành nhiệm vụ. Ký tên…”. Thảo xong bức thư, Khanh đưa ngay cho chính trị viên duyệt và được anh cầm bút ký liền. Không ngờ, sau trận đánh ấy, anh Bát đã hy sinh.

Ít lâu sau, Khanh xin phép thăm gia đình. Bắc xem lá thư có chữ ký của chính trị viên Nguyễn Viết Bát, cô im lặng không nói, mà hai hàng nước mắt cứ trào ra… Họ quyết định xin phép gia đình làm đám cưới. Nhưng khi bàn công việc cụ thể thì cả hai đứa đều khóc, vì hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, chẳng có điều kiện để mua kẹo bánh, thuốc, nước mời bạn bè. Bắc đành trở lại vùng địch hậu gặp mẹ và thật bất ngờ, ngay hôm sau mẹ Bắc đã quẩy đôi quang gánh nặng, một bên là cậu em út, một bên là bánh kẹo lên vùng tự do Hồng Kỳ để làm lễ cưới cho con. Đêm tân hôn, vợ chồng Khanh được mọi người chuẩn bị cho một ổ rơm lót đệm lá chuối khô trong một túp lều nhỏ trên sườn đồi. Hai ngày sau, hai người lại phải chia tay nhau. Ngờ đâu đó là cuộc chia ly vĩnh viễn…

Ba tháng sau ngày cưới, Khanh nhận được ba lá thư của vợ nhắn đã gửi cho anh chiếc đồng hồ và chiếc áo len. Niềm vui vừa thoảng qua thì anh lại nhận thư của gia đình báo tin vợ đã anh dũng hy sinh khi đang làm nhiệm vụ đưa đoàn cán bộ từ vùng địch hậu Lương Châu ra “vành đai trắng” Phù Linh. Cô đi trước để thăm dò, vừa đến chân Núi Đôi, không may rơi vào ổ phục kích của địch. Chúng bắt và bịt miệng cô lại với mưu đồ sẽ phục để “cất vó” toàn bộ số cán bộ đi sau. “Quyết không để cán bộ của ta sa vào tay giặc” – nghĩ vậy, Bắc đã chống cự quyết liệt, bất thình lình, cô lao vào tên quan Pháp, dùng hết sức bình sinh đạp vào chỗ hiểm của hắn. Bị đòn đau bất ngờ, tên quan Pháp kêu rống lên như con bò bị chọc tiết. Tên lính đứng cạnh đó vội dùng súng xả trọn một băng vào ngực cô. Thấy động, đoàn cán bộ của ta đã rút lui an toàn…

Một chiều đông năm 1955, một anh bộ đội về bên gò cầu Cồn. Người em họ của liệt sĩ Trần Thị Bắc nhận ra anh rể của mình đã òa lên khóc: “Chị Bắc nát ngực, máu đọng khô, nhiều viên đạn còn nằm trong đó”.

Sau này, mặc dù chỉ được nghe kể về tình yêu đôi lứa của anh bộ đội với nữ liệt sĩ Núi Đôi, nhà thơ Vũ Cao đã viết nên bài thơ “Núi Đôi” nổi tiếng.

Còn một chi tiết cảm động nữa, đó là vào cuối năm 1957, cả ba người mẹ là mẹ đẻ của nữ liệt sĩ Trần Thị Bắc, mẹ đẻ và mẹ nuôi của Trịnh Khanh đã đến thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung (Đông Anh) để hỏi vợ cho ông là bà Phan Thị Khuyến. Sau này, dù ở xa nhưng hằng năm, cứ đến ngày giỗ, tết, bà Khuyến lại cùng các con về thắp hương cho người nữ liệt sĩ Núi Đôi…

Bài và ảnh: NGÔ VĂN HỌC

Lời Bài Thơ Núi Đôi (Vũ Cao)

Bảy năm về trước em mười bảy Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa Bữa thì anh tới bữa em sang.

Lối ta đi giữa hai sườn núi Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi Em vẫn đùa anh sao khéo thế Núi chồng, núi vợ đứng song đôi.

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn Ai ngờ từ đó mất tin nhau.

Anh vào bộ đội lên Đông Bắc Chiến đấu quên mình năm lại năm Mỗi bận dân công về lại hỏi Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng.

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi Mỗi tin súng nổ vùng đai địch Sương trắng người đi lại nhớ người.

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở Trung du làng nước vẫn chờ trông Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm Em vẫn đi về những bến sông.

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi Hành quân qua tắt đường sang huyện Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi.

Mới đến đầu ao tin sét đánh Giặc giết em rồi, dưới gốc thông Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa Em sống trung thành chết thuỷ chung.

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói Núi vẫn Đôi mà anh mất em.

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo Em còn trẻ lắm, nhất làng trong Mấy năm cô ấy làm du kích Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng.

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy Sân biến thành ao nhà đổ chái Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay.

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau Nứa gianh nửa mái lều che tạm Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau.

Anh nghe có tiếng người qua chợ Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu.

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ Oán thù còn đó anh còn đây Ở đâu cô gái làng Xuân Dục Đã chết vì dân giữa đất này?

Ai viết tên em thành liệt sĩ Bên những hàng bia trắng giữa đồng Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí Một tấm lòng trong vạn tấm lòng.

Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường Em sẽ là hoa trên đỉnh núi Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.

Chuyện Tình Bi Tráng Có Thật Trong Bài Thơ “Núi Đôi”

Người 17 tuổi đã trẻ nhất làng? Nhà thơ Vũ Cao từng nói, nếu không có chất liệu cuộc sống hàng ngày thì ông không viết được. Ông kể rằng bài thơ được ông viết vào một ngày cuối năm 1956. Hồi đó ông về công tác ở sư đoàn 312, đóng quân ở huyện Sóc Sơn (Hà Nội), cạnh đó có ngọn núi Đôi.

Một hôm, theo mấy người dân đi chợ, ông nghe họ kể chuyện tình của một cô gái du kích trong làng yêu một anh trai làng, rồi anh đi bộ đội. Khi anh trở về thì cô gái đã hy sinh.

Núi Đôi, Vũ Cao

Vũ Cao liền tìm đến thăm mộ người nữ liệt sỹ đó ở xóm Chùa, thôn Xuân Đoài (còn gọi là Xuân Dục – Đoài Đông), thuộc xã Phù Linh (còn gọi là Lạc Long). Đến tận nơi và nghe người dân kể lại câu chuyện tình giữa anh bộ đội và cô du kích, cảm hứng xuất hiện khiến ông đã chấp bút viết ra bài thơ Núi Đôi…Cả tên làng, tên chợ, tên người và quang cảnh đều hoàn toàn có thật. Mộ cô gái hiện vẫn còn. Chỉ có anh bộ đội là người yêu của cô du kích thì lúc ấy Vũ Cao không gặp được, không rõ còn sống hay đã mất.

Về lý do tại sao ngay trong hai câu thơ đầu, ông lại cho rằng đôi nam nữ, trong đó cô gái 17 tuổi và chàng trai đôi mươi là “trẻ nhất làng”?. Vũ Cao sau này nói rằng, ngay chính ông cũng… không hiểu vì sao ông lại viết như vậy.

Ông kể: “Quả thật hồi đó trong làng còn có cả trẻ nhỏ và thanh thiếu niên cùng trang lứa với họ. Có lẽ tôi đã quá cảm động trước chuyện tình đẹp như mơ và cũng đầy tình tiết bi kịch của đôi lứa ấy mà “thậm xưng” lên như vậy.

Tuy nhiên, nói trẻ nhất làng thì cũng có khía cạnh không ngoa. Người ta tiếc cho cuộc tình không thành ở lứa tuổi 17, lứa tuổi nhiều sức sống nhất, yêu tha thiết nhất, thế mà giặc Pháp xâm chiếm quê hương, giết cô du kích”.

Sự đồng cảm lạ kỳ giữa nhà thơ – hình mẫu

Hai ngọn núi Đôi bây giờ vẫn còn, người dân ở khu vực xã Phù Linh đều biết câu chuyện trong bài thơ cùng tên ngọn núi, hỏi ai cũng đều có thể nhận được câu trả lời: “Cô ấy chính là người làng này”.

Nhân vật nữ trong bài thơ chính là liệt sỹ Trần Thị Bắc, con gái đầu trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Lớn lên trong thời kỳ giặc Pháp xâm lược, năm 15 tuổi Bắc đã tham gia các hoạt động đoàn thể. 17 tuổi cô vào đội du kích với nhiệm vụ làm giao thông liên lạc, tiếp tế cho đội du kích rồi được giao cả ba nhiệm vụ: quân báo, cứu thương và binh vận.

Ngày 21/3/1954, dẫn một đoàn cán bộ đi công tác, khi trở về núi Đôi thì Bắc gặp ổ phục kích của địch. Cô giao liên dù bị địch bịt miệng nhưng vẫn kịp thời la lớn để cảnh báo những người trong đoàn cùng đi phía sau, giúp các cán bộ chạy thoát.

Tức tối, địch tra hỏi nhưng không khai thác được thông tin gì từ cô du kích gan dạ này. Giặc Pháp xử bắn Bắc ngay tại chỗ. Khi đồng đội tìm đến nơi thì Bắc đã tắt thở. Đồng đội đắp mộ cho cô ở khu vực cầu Cốn, Vệ Sơn, xã Tân Minh.

Người ta cũng xác định được nhân vật “Anh đi bộ đội sao trên mũ” ấy cũng là một người có thật: ông Trịnh Khanh, người cùng xã Phù Linh. Theo lời ông Khanh kể lại, ông và cô Bắc quen nhau trong thời gian Bắc đang học y tá, và đơn vị của ông đóng quân gần đó. Là đồng hương nên có nhiều điều quý mến nhau, giữa đôi trai gái này đã hẹn ước với nhau trước khi cô Bắc học xong khoá y tá rồi quay về Phù Linh.

Đầu năm 1953, ông Khanh và cô Bắc gặp lại nhau và hai người quyết định tổ chức đám cưới ngay tại đơn vị của chú rể. Đám cưới tổ chức đơn sơ, đại diện họ nhà trai là đồng đội cùng đơn vị, đại diện họ nhà gái là mẹ của Bắc.

Vợ chồng sống với nhau được hai ngày thì chia tay, ông Khanh theo đơn vị chuyển quân đến địa điểm mới, chị Bắc trở về quê nhà Phù Linh. “Tôi không ngờ đó là cuộc chia ly vĩnh viễn”, ông Khanh nhớ lại.

Ba tháng sau ngày cưới, ông Khanh nhận được tin vợ mình đã hi sinh. Đau đớn nhưng không biết làm sao, ông tiếp tục theo đơn vị bước vào những trận đánh mới.

Khi Hiệp định Genève được ký kết, một buổi chiều cuối năm 1954, người ta nhìn thấy một anh bộ đội vai đeo ba lô bước về, nhưng không vào làng ngay mà ngồi thẫn thờ bên ngôi mộ chi Bắc ven gò Cầu Cốn. Ông Khanh nghẹn ngào “Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng cây, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em”. “Không hiểu vì sao nhà thơ Vũ Cao lại có thể đồng cảm, hiểu tâm trạng của người trong cuộc đến như thế”, ông Khanh nói.Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, ông Khanh đã tới tìm gặp nhà thơ Vũ Cao, nhà thơ lúc đó mới bàng hoàng: “Thế Bắc có chồng rồi à?”.

Theo nhà thơ Vũ Cao, khi mới bắt gặp câu chuyện, ông đã dự định sẽ viết một truyện ngắn về đề tài này chứ không phải là một bài thơ. “Không hiểu vì sao, sau khi đi thực tế, tứ thơ dâng lên và bài thơ ra đời”, ông kể lại.

Hàng chục năm sau khi bài thơ ra đời, nhiều bạn đọc còn nhầm tưởng bối cảnh và tình huống trong bài thơ là của chính tác giả. Trong một lần nói chuyện với sinh viên Trường cao đẳng Sư phạm Hà Nội, thậm chí còn có một cô sinh viên nước mắt lưng tròng thầm thì với nhà thơ “Cháu thương bác quá”.

Một nhà thơ từng nói, Vũ Cao là nhà thơ hiền hiếm có. Rằng Vũ Cao nổi tiếng sau kháng chiến chống Pháp với bài thơ Núi Đôi bất tử, Vũ Cao lẽ ra có thể nhân thành công đó để đưa thơ mình lên. Nhưng ông lại cứ như người bộ hành chậm rãi, nhường đường cho người khác, cho các nhà thơ khác. Vũ Cao nói, ông làm thơ, mục đích cũng chỉ là để phục vụ bộ đội mà thôi.

Mẹo du lịch:

Để tự vệ khi bị cướp hoặc khủng bố, bạn nên tự học Vịnh Xuân Quyền miễn phí online.

Mang theo một lọ tinh dầu thiên nhiên diệt virus, đề phòng bệnh dịch, và đảm bảo sức khoẻ.

Khi ở khách sạn, hãy để ý gài chốt an toàn để phòng tránh trộm cướp.

Nên đeo trên người theo một món trang sức đá phong thuỷ để gặp may mắn.

Đọc các mẹo vặt về sức khoẻ để tự sơ cứu và điều trị khi gặp sự cố.

Phân Tích Bài Thơ Núi Đôi Của Vũ Cao

Phân tích bài thơ Núi đôi của Vũ Cao

Bài thơ là nỗi xúc động chân thực của tác giả về một câu chuyện có thật ở vùng Xuân Dục trong kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tự sự đậm đà phong vị dân gian làm đẹp thêm mối tình kháng chiến, đồng thời tạo xúc động trước sự hy sinh của người con gái anh dũng.Mối tình nên thơ gắn với hoài niệm về thời đẹp nhất của tuổi thanh xuân:Bảy năm về trước em mười bảyAnh mới đôi mươi trẻ nhất làngTác giả dẫn dắt vào không gian trong veo hương đồng nội, với những địa danh thân thương gắn kết đôi bạn trẻ: Xuân Dục, Đoài Đông, Núi Đôi…giản dị và tự nhiên tạo thành thương nhớ. Tình người, tình đất, tình quê lồng vào nhau:Em vẫn đùa anh sao khéo thếNúi chồng núi vợ đứng song đôiCâu chuyện tình hết sức riêng tư, chân thật đã được gắn vào với hoàn cảnh quê hương ngày giặc chiếm đã đan cài vào đó bao tâm trạng uất nghẹn căm hờn và lo lắng bồn chồn của người dân núi Đôi. Cảm xúc này từng được diễn tả trong bài Đất Nước (1955) của Nguyễn Đình Thi:Những đêm dài hành quân nung nấuBỗng bồn chồn nhớ mắt người yêuTừ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, ta thêm hiểu vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn. Lời dẫn chuyện của Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục. Bao tâm trạng được diễn tả: khắc khoải ngóng đợi, “trăm nghìn căm uất”, náo nức ngày trở lại. Tự thân những lời thơ đã làm đẹp thêm bao nhiêu bóng hình người yêu trong tâm tưởng người chiến sĩ:Núi Đôi bốt dựng kề ba xómEm vẫn đi về những bến sông?Chính vì vậy mà nỗi đau xót sẽ làm người đọc càng day dứt, như một sự tích tụ để vỡ oà trước sự mất mát. Hơn bao giờ hết, người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù một cách cụ thể đến từng số phận: bắt đầu từ sự xuất hiện của chúng là một dự cảm mơ hồ, tiếc nuối:Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹnĐâu ngờ từ đó mất tin nhauđể rồi trở thành sự ngóng đợi thắc thỏm: sương trắng người đi lại nhớ người. Mong đợi cháy bỏng đến khi thành hiện thực thì lại phải đối mặt với nỗi đau lớn nhất “giặc giết em rồi, dưới gốc thông”. Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động:A nh ngước nhìn lên hai dốc núiHàng thông, bờ cỏ, con đường quenNắng lụi bỗng dưng mờ bóng khóiNúi vẫn đôi mà anh mất em!Hình ảnh kỷ niệm yêu thương đã vụt biến thành chứng tích đau thương, nỗi đau rất thật ấy không của riêng ai bởi không chỉ là sự mất mát của anh mà là của cả quê hương, bởi “em sống trung thành, chết thủy chung”. Đó không hề là cảm giác bi lụy mà mang tính chất bi kịch, giúp người đọc ý thức được giá trị của chiến thắng. Nỗi đau càng lớn hơn khi được kể lại, nhưng sự vô tình ấy lại làm ta nhận rõ về người liệt sĩ – người yêu của anh chiến sĩ:Mấy năm cô ấy vào du kíchKhông hiểu vì sao chẳng lấy chồng?Mỗi lời kể như dao cứa vào tim, nhưng lạ thay lại làm ta thêm yêu mến, trân trọng người con gái sắt son anh dũng. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương. Hình tượng người con gái Núi Đôi còn để lại suy ngẫm sâu sắc về sự hy sinh. Đó không phải là mất mát bình thường mà có khả năng biến đau thương thành sức mạnh. Bóng hình người con gái hoà vào bóng hình quê hương, thúc giục tâm tư của người còn sống, thành ý chi và quyết tâm vượt lên bất hạnh, hồi sinh sự sống. Với ý nghĩa đó, cô gái núi Đôi đã thành biểu tượng bất tử:Cha mẹ dìu nhau về nhận đấtTóc bạc thương từ mỗi gốc cauNứa gianh nửa mái lều che tạmSương nắng khuây dần chuyện xót đauTình yêu bị kẻ