Top 9 # Xem Truyện Cổ Tích Việt Nam Hay Nhất Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Truyện Cổ Tích Việt Nam Hay Nhất

thường chứa đựng những yếu tố có tính kì ảo, hoang đường nhưng thông qua đó thể hiện được mong muốn của con người về sự chiến thắng, vinh quang của những cái đẹp, cái tốt, cái thiện và những cái xấu, cái ác phải chịu thua nhằm hướng đến sự công bằng trong cuộc sống.

Đặc điểm của truyện cổ tích

So với các loại truyện khác như, truyền thuyết hay thì truyện cổ tích Việt Nam có được những đặc trưng nhất định được dùng để phân biệt với các thể loại khác.

Thứ nhất, những câu đều mang phong cách thời cổ, thời xa xưa. Bởi đó thường là những nội dung kể về những câu chuyện thời xa xưa, kể về những nhân vật như ông bụt, cô tiên, cô Tấm,… với những hình tượng, cốt truyện, mô típ đều “cổ”. Do đó, màu sắc và không khí của câu chuyện đều toát lên được tính chất cổ.

Thứ hai, dù chứa đựng nhiều tình tiết có tính chất tưởng tượng, hoang đường hay không phù hợp với tư duy logic nhưng những điều đó vẫn cần phải tuân thủ theo bản sắc dân tộc Việt Nam. Nguyên nhân của tính chất này chính là do những câu truyện cổ tích Việt Nam thường có tính chất cộng đồng rất cao, chính vì vậy nếu chứa đựng những điều không phù hợp với thuần phong mỹ tục sẽ nhanh chóng bị bài trừ.

Thứ ba, những câu truyện cổ tích đều phải mang tính nghệ thuật và tính tư tưởng. Điều đó có nghĩa là mỗi nội dung khi được kể lại đều phải mang theo những ý nghĩa nhất định về con người, về cuộc đời và hướng người nghe đến những điều tốt đẹp, cao cả, hướng đến các giá trị chân – thiện – mỹ.

Phân loại truyện cổ tích Việt Nam

Một số thông tin về kho tàng truyện cổ tích Việt Nam

Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam được xem là một tác phẩm nhiều tập được ra mắt lần đầu tiên vào năm 1957 sau đó mới được tái bản vào năm 1961. Mục tiêu là được dùng để sưu tập lại những mẫu truyện cổ tích và truyền thuyết. Với nhiệm vụ cao cả này có thể ví như đây là công trình mà Henri Pourra đã từng thực hiện cho văn hóa dân gian của nước Pháp.

Và tác giả tiêu biểu nhất trong việc hoàn thành nhiệm vụ này chính là Nguyễn Đổng Chi khi ông là người đầu tiên thực hiện một cách nghiêm túc nhất với một cách thức đầy logic và hoàn chỉnh. Thành tựu là ông đã cho ra đời ba phần trong đó hai phần đầu tiên đã mang đến những nghiên cứu có lợi để về sau có thể dùng để đánh giá được về truyện cổ tích trong văn chương truyền miệng Việt Nam.

– Thế giới truyện cổ tích Việt Nam chọn lọc cho thiếu nhi, những câu chuyện cổ tích hay nhất trong kho tàng truyện dân gian Việt Nam. Đọc truyện cổ tích Việt Nam hay nhất, những câu chuyện cổ tích được chọn lọc kỹ nhất kể cho bé nghe, truyện dân gian, sự tích, truyền thuyết hay nhất Việt Nam được cập nhật thường xuyên tại chúng tôi

Sách Truyện Cổ Tích Việt Nam Hay Nhất

“… – Ta là tiên đây, ta hứa ban cho các người ba điều đầu tiên mà các ngươi ước muốn, nhưng ta khuyên các người nên cẩn thận, các ngươi chỉ được ước ba điều, sau đó là ta sẽ không cho gì nữa.

Nói xong, nàng tiên biến mất. Hai vợ chồng đều lấy làm lúng túng.

– Tôi ấy à – Chị vợ nói – Nếu mình để tôi quyết định, tôi sẽ biết mình nên ước điều gì, tôi chưa nói điều đó ra, nhưng ý tôi là không gì hay bằng được đẹp người, có của và được tới lui với thế giới thượng lưu.

– Ối trời – Anh chồng đáp – Có những thứ ấy, người ta vẫn có thể ốm đau hoặc bị hành hung toi mạng, người ta vẫn có thể chết yểu. Khôn hơn là ước được khoẻ mạnh, có sức làm việc và sống lâu.

– Sống lâu để làm gì, nếu như cứ nghèo khổ? – Chị vợ đáp – Sống lâu như thế chỉ có thểm khổ lâu chứ được gì. Nói cho đúng lẽ ra nàng tiên phải cho chúng ta mười hai điều vì ít nhất cũng có mười hai thứ tôi đang cần.

– Mình nói đúng, anh chồng tán thành, nhưng hay thong thả, từ giờ đến sáng mai chúng ta xét xem ba điều cần thiết nhất là điều gì để xin với nàng tiên.

– Tôi sẽ suy nghĩ suốt đêm, mình ạ – Chị vợ nói – Trong khi chờ đợi, hãy sưởi ấm một chút, trời lạnh lắm.

Chị vừa những nói vừa lấy đũa bếp cời lửa. Thấy bếp nhiều than rực hồng, chị vô tình thốt lên:

– Lửa tốt quá, giờ mà có độ một thước dồi ăn tối thì nướng dễ như chơi.

Chị vừa nói xong thì một thước dồi rơi từ đỉnh lò sưởi xuống, nàng tiên đã chuẩn hứa điều ước mong chị ta vừa nói ra làm không kịp nghĩ. Anh chồng điên tiết, thét lên:

– Dồi với chả, đồ tham ăn chết giẫm. Ước với mong con khỉ. Thế là bây giờ chỉ còn có hai điều để ước nữa thôi. Con đàn bà trời đánh kia, khúc dồi của mày đó, mày giữ rịt trên mũi mày đi.

Nói xong mấy lời đó, anh chồng càng thấy mình điên rồ hơn vợ. Bởi theo lời ước của anh, khúc dồi liền nhảy lên mũi chị vợ, chị ta cố sức mà không gỡ ra được. Chị ta kêu lên:

– Trời ơi, khốn khổ cho tôi đến thế này hở trời! Sao mà mình lại độc ác đến nỗi ước cho khúc dồi dính vào mũi tôi chứ!

– Tôi thề với mình, mình ơi, tôi đâu có nghĩ đến cơ sự như vậy – Anh chồng đáp – Tôi giận quá, tôi nói bừa chứ có biết mình nói gì đâu. Làm sao bây giờ hở mình? Hay là tôi ước được nhiều của, nhiều tiền để tôi thuê làm một cái ống bằng vàng bọc khúc dồi kia lại.

– Thôi, thôi, mình đừng làm thế, tôi chỉ có nước tự tử nếu tôi phải mang khúc dồi này ở mũi. Bây giờ thì chỉ còn một điều ước thứ ba thôi, mình để đó cho tôi, không thì tôi nhảy qua cửa sổ tôi chết bây giờ.

Chị ta vừa nói vừa chạy tới mở cửa. Anh chồng vốn rất thương vợ, liền thét lên:

– Kìa, dừng lại, mình ơi, tôi đồng ý cho mình muốn ước gì tuỳ ý mình.

– Thế thì tôi ước cho khú dồi này rơi xuống đất.

Tức thì khúc dồi rơi xuống. Và chị vơ, vốn là người thông minh, thong thả bảo chồng:

– Nàng tiên đã chế diễu vợ chồng mình, và nàng ấy có lý. Biết đâu, khi mình giàu hơn hay mình khác hiện nay, mình sẽ khổ hơn?

– Mình nghe tôi, mình ạn, chả ước mong viễn vong làm gì, cứ sống cho thực tế, bằng sức của mình. Còn bây giờ thì chúng ta ăn tối thôi, có khúc dồi là cái còn sót lại của ba lần ước đó.

Anh chồng cho vợ mịnh nói có lý, và cả hai ăn tối vui vẻ, chẳng thèm bận tâm đến những cái mà hồi nãy họ vừa mong ước.

Cái lông chim nhỏ màu đỏ

Con trâu thần kỳ

Hoảng tử Khoẻ

Mẹ Rùa và nàng Lan Chi

Người đầy tớ và người ăn trộm

Ông vưa tự cho mình thông minh

Sự tích chim chèo bẻo

Sự tích sông Nhà Bè

Mời bạn đón đọc.

Truyện Cổ Tích Việt Nam

Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy mình đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:

– Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không?

Mụ đáp:

– Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.

Vua hỏi:

– Điều kiện gì hở cụ?

– Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.

Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua. Vua về đến cung điện làm lễ cưới.

Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua.

Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua. Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đường. Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ.

Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất. Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh.

Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi:

– Các anh con đâu?

Cô đáp:

– Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con.

Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa. Cô gái đáng thương nghĩ bụng:

– Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được.

Truyện cổ tích Việt Nam – Sáu con Thiên Nga

Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:

– Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.

Em hỏi:

– Thế các anh có cách nào che chở em không?

Các anh nói:

– Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.

Em khóc hỏi:

– Thế không có cách nào giải thoát các anh à?

Các anh đáp:

– Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.

Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất. Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau, cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú làm.

Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:

– Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu.

Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót. Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, bế cô xuống đưa đến trước mặt vua. Vua hỏi:

– Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?

Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình. Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng. Vua nói:

– Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.

Mấy hôm sau, vua lấy nàng. Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:

– Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.

Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người. Vua không tin, không để ai làm hại nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:

– Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được. Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.

Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.

Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:

– Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan.

Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay nghiệt kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu.

Truyện Cổ Tích Thế Tục Việt Nam Hay Và Ý Nghĩa Nhất

Truyện cổ tích thế tục là một trong những thể loại của truyện cổ tích, xoay quanh những sự kiện đời sống thường ngày, hoạt động, sinh hoạt của người dân. Yếu tố thần kì vẫn có nhưng không đóng vai trò giải quyết xung đột, mâu thuẫn chính trong tác phẩm. Đây là thể loại gần gũi và dễ tiếp thu.

1. Sự tích trầu cau

Ngày xưa có Tân và Lang là hai anh em ruột, dáng người và mặt mày giống nhau như đúc, chính người nhà cũng nhiều phen nhầm lẫn. Cha họ là một người cao to nhất trong vùng từng được vua Hùng triệu về Phong Châu ban thưởng và đặt tên là Cao. Từ đó gia đình lấy họ “Cao”.

Hai anh em lớn lên thì cha mẹ qua đời. Cả hai quyến luyến nhau không rời nửa bước. Người cha trước khi mất có gửi gắm Tân cho một đạo sĩ họ Lưu, Lang không chịu ở nhà một mình cũng cố xin cùng được học với anh. Đạo sĩ họ Lưu có cô con gái cùng lứa tuổi với họ.

Để biết ai là anh, ai là em, một hôm cô gái họ Lưu bày ra một mẹo nhỏ. Giữa lúc họ đang đói, nàng chỉ dọn cho họ một bát cháo với một đôi đũa. Đứng sau khe vách, nàng thấy người này nhường cháo cho người kia ăn nên cô biết đó là người anh.Tân và cô gái gặp gỡ và yêu nhau. Đạo sĩ họ Lưu vui lòng gả con cho Tân. Sau khi cưới, hai vợ chồng đến ở một ngôi nhà mới, có Lang ở chung.

Từ ngày lấy vợ, Tân không âu yếm em như trước nữa. Lang nghĩ anh “mê vợ quên ta” trong lòng chán nản buồn bực.

Một hôm Lang và Tân cùng lên nương đến tối mịt mới về. Lang về trước làm vợ Tân nhầm liền ôm chầm lấy, lúc đó Tân bước vào nhà và ghen em, hững hờ với Lang. Lang vừa giận vừa thẹn. Chàng bỏ nhà ra đi lúc trời mới mờ sáng, trong lòng bực bội. Mấy ngày đường, Lang tới bờ một con sông lớn nước chảy xiết. Lang quyết không chịu trở lại, cúi gục trên bờ, ôm mặt khóc. Chàng khóc mãi, khóc mãi, đến nỗi những con chim đi kiếm ăn khuya vẫn còn nghe tiếng nức nở. Sáng hôm sau, Lang hóa đá.

Mãi sau vẫn không thấy em về, Tân bổ đi tìm không thấy tăm dạng. Biết là em bỏ đi vì giận mình, chàng hối hận. Hôm sau nữa, cũng không thấy về, Tân hoảng hốt để vợ lại nhà, cất bước đi tìm. Chàng đến bờ con sông thấy em đã hóa thành đá. Tân đứng bên cạnh hòn đá khóc mãi cho đến lúc chết và hóa thành một cây thân mọc thẳng lên trời, bên cạnh hòn đá.

Vợ Tân chờ mãi không thấy chồng về, cũng bỏ nhà đi tìm. Nàng cũng tới con sông khóc cạn cả nước mắt và chết hóa thành một cây dây quấn quanh lấy cây kia.

Đợi mãi không thấy ba người về, vợ chồng đạo sĩ nhờ mọi người chia nhau tìm kiếm. Trước hòn đá và hai cây lạ, họ dựng miếu thờ cả ba người trẻ tuổi ở ven sông. Nhân dân quanh vùng gọi là miếu “anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa”.

Một năm nọ trời hạn hán rất dữ chỉ có hai cây mọc bên cạnh hòn đá trước miếu là vẫn xanh mượt. Mọi người cho là linh dị. Vua Hùng một hôm ngự giá qua xứ đó. Khi đi qua trước miếu, vua ngạc nhiên hỏi: -“Miếu này thờ vị thần nào? Mấy loại cây này ta chưa từng thấy bao giờ?”. Lạc tướng cho gọi mấy cụ già ở quanh vùng đến hỏi. Hùng Vương càng nghe, không ngăn được sự cảm động. Vua vạch lá trèo lên nhìn khắp mọi chỗ và sai một người trèo cây hái quả xuống nếm thử. Vị chát không có gì lạ. Nhưng khi nhai với lá cây dây thì một vị là lạ đến ở đầu lưỡi: nó vừa ngon ngọt, vừa thơm cay.

– Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn thắm đỏ.

Từ đó vua Hùng ra lệnh cho mọi nơi phải gây giống cho nhiều hai loại cây ấy, bắt buộc trai gái khi kết hôn thế nào cũng phải tìm cho được ba món: trầu, cau và vôi cho mọi người nhai nhai nhổ nhổ một tý để ghi nhớ tình yêu không bao giờ phai lạt. Từ đó dân Việt mới có tục ăn trầu.

Cho đến ngày nay, trầu cau vẫn là thứ không thể thiếu việc giao hiếu, kết thân và cưới hỏi của người Việt. Thể hiện rõ tình cảm thắm thiết giữa những người thân trong gia đình.

2. Sự tích hoa đào

Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào sum suê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng. Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. 

Vào thời điểm đó, quỷ dữ hay ma quái nào bén mảng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh này. Vì vậy, ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay.

Đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng. Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ, ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ. Sự tích về hoa đào cũng bắt nguồn từ đó.

Hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà để trừ ma quỷ. Tuy nhiên về sau, người ta quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này vì không còn tin vào ma quỷ, thần linh như tổ tiên ngày xưa.

Ngày nay, cành đào tươi thắm vẫn xuất hiện trong mỗi ngôi nhà vào dịp Tết đến xuân về nhưng ý nghĩa của nó đã khác xa với tục lệ ngày xưa. Vẻ đẹp của nó đã mang lại sự ấm cúng cho mỗi nhà, gieo vào lòng mỗi người niềm vui, niềm tin yêu, hy vọng vào năm mới tốt đẹp.

Hoa đào là tượng trưng cho hi vọng của năm mới, mang đến mong muốn về một năm mới an lành, gặp nhiều may mắn. Vì vậy đào gắn liền với tết.

3. Sự tích cây chổi

Ngày xưa ở trên cung điện nhà trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay. Bà chế những món bánh trái tuyệt phẩm, làm những thức ăn ngon đến nỗi chỉ nếm qua một miếng là không thể nào quên được. Cho nên Ngọc Hoàng thượng đế cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn cho mình ở thiên trù. Nhưng bà lại hay ăn vụng và tham lam.

Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng luật lệ đó không ngăn được những người đang sẵn thèm khát. Người đàn bà vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho kho thức ăn của nhà Trời hao hụt.

Tuy đã quá tuổi xuân, bà ta lại yêu một lão vốn chăn ngựa cho thiên đình. Đời sống của những người chăn ngựa thì ở cõi trời cũng như cõi đất đều cực khổ không kém gì nhau. Ông ta thích rượu và từ khi gặp người đàn bà này lại thèm ăn ngon. Bà ta say mê ông tưởng trên đời không còn có gì hơn được. Mỗi lúc thấy người đàn ông đó thèm thức ăn, đồ uống của nhà Trời, bà ta không ngần ngại gì cả. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho ông. Và cũng nhiều phen bà dắt ông lẻn vào kho rượu, mặc sức cho ông bí tỉ.

Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Bà và các bạn nấu bếp khác làm việc tíu tít. Chỉ vào chập tối, các món ăn đã phải làm đầy đủ. Rồi khi ánh nguyệt của đêm rằm sáng lòa là mọi người bắt đầu vào tiệc. Nhưng giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết ông tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu ông ta vào phía góc chạn. Bà đưa cho ông mấy chén rượu, thứ rượu ngon nhất của thiên tào rồi trở ra làm nốt mẻ bánh hạnh nhân.

Người đàn ông đó mới đi tắm ngựa ở bến sông về. Bưng lấy bát cơm hẩm, ông sực nhớ đến rượu thịt bây giờ chắc đang ê hề ở thiên trù, nên vội lẻn đến đây. Trong bóng tối, ông nuốt ực mấy chén rượu lấy làm khoái. Chén rượu quả ngon tuyệt, hơi men bốc lên làm ông choáng váng. Ông bỗng thèm một thức gì để đưa cay. Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ở gần đó có biết bao là mỹ vị mùi thơm phưng phức. Đang đói sẵn, ông giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để…

Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nào nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Bữa tiệc vì thế mất vui.

Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội. Và sau đó thì cả hai người cùng bị đày xuống trần, làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Đó là tội nặng nhất ở thiên đình.

Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nỗi là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán.

Bởi vậy đời sau trong dịp Tết nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà. Người Việt Nam chúng ta có câu đố về cái chổi “Trong nhà có một bà hay la liếm” mô tả thần tình động tác quét nhà nhưng trong đó chắc còn có ngụ ý nhắc lại sự tích của cái chổi.

Câu chuyện phê phán thói tham ăn, khuyên chúng ta cần phải giữ phép lịch sự trong ăn uống. Mở rộng ra là phê phán thói hư tật xấu của con người, khi mà ham ăn được cho là một trong những tật xấu nhất của con người, cần phải loại bỏ. 

Ngày xửa ngày xưa, tất cả các loài cây trên Trái Đất thuở ban đầu mới chỉ có lá mà chưa có hoa như bây giờ. Trời sai Thần Sắc Đẹp dùng bút vẽ muôn ngàn bông hoa khác nhau cho cây cối. Vâng mệnh trời, Thần Sắc Đẹp bay xuống trần gian, đi khắp nơi để vẽ hoa cho cây cối.

Vẽ xong, Thần ngắm lại vẫn chưa hài lòng. Thần muốn tặng các hương thơm lên các loài hoa Thần vừa vẽ. Ngặt một nỗi Thần không đủ hương để chia đều cho tất cả các loài hoa. Thần quyết định sẽ tặng làn hương quý báu này cho loài hoa nào có tấm lòng tốt nhất, thơm thảo nhất. Thần hỏi Hoa Hồng:

– Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì?

– Cháu sẽ nhờ chị gió mang tặng cho tất cả. – Hoa Hồng trả lời.

Thần Sắc Đẹp hài lòng, tặng ngay cho Hoa Hồng làn hương quý báu. Thần hỏi Hoa Sữa:

– Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì?

– Cháu sẽ tỏa ngát trong đêm để dù đêm tối đến đâu ai cũng nhận ra cháu. – Hoa Sữa trả lời.

Câu trả lời này không làm Thần Sắc Đẹp hài lòng lắm. Nhưng rồi Thần cũng ban tặng làn hương thơm cho Hoa Sữa. Gặp hàng Râm Bụt đỏ chót, Thần lại hỏi:

– Nếu có hương thơm thì nhà ngươi sẽ làm gì?

Hoa Râm Bụt loe cái miệng trả lời:

– Nếu có hương thơm thì ai cũng nể phục tôi. Cái đám hoa Dong Riềng kia không dám khoe sắc, đọ tài với tôi nữa.

Thần Sắc Đẹp lắc đầu, buồn rầu bỏ đi. Đi mãi, ban tặng gần hết bình hương thì Thần gặp hoa Ngọc Lan:

– Hỡi hoa Ngọc Lan bé nhỏ. Nếu ta ban cho nhà ngươi làn hương thơm còn lại kỳ diệu này thì nhà ngươi sẽ làm gì?

Hoa Ngọc Lan suy nghĩ một hồi. Thần Sắc Đẹp nhắc lại câu hỏi đến lần thứ ba hoa Ngọc Lan mới ngập ngừng trả lời:

– Cháu xin cảm ơn Thần Sắc Đẹp. Cháu thích lắm. Nhưng cháu không muốn nhận đâu.

Thần Sắc Đẹp ngạc nhiên hỏi:

– Loài hoa nào cũng muốn ta ban tặng. Tại sao nhà ngươi lại từ chối?

– Cháu muốn Thần đem phần hương này đến ban tặng cho loài Hoa Cỏ. Cháu còn được ở trên cao. Hoa Cỏ đã xấu xí lại còn bị giày xéo hàng ngày. Hoa Cỏ khổ lắm…

Nói đến đấy hoa Ngọc Lan òa khóc. Thần Sắc Đẹp vô cùng cảm động liền ban tặng cho hoa Ngọc Lan phần hương nhiều hơn các loài hoa khác.

Chính vì có tấm lòng thơm thảo mà từ đó hoa Ngọc Lan lúc nào cũng thơm ngát hương hơn hẳn các loài hoa khác.

Những truyện cổ tích thế tục rất gần gũi với đời sống thường ngày, chủ yếu nói về các sự tích ra đời, ít cao trào và mâu thuẫn cũng như dễ cảm thụ hơn. Thế giới cổ tích luôn phong phú và chứa đựng nhiều điều mới lạ mà không phải ai cũng biết.

Thảo Nguyên