Top 8 # Xem Truyện Cười Dân Gian Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Cùng Xem Qua Những Truyện Cười Dân Gian Thú Vị Không Thể Bỏ Lỡ

Rate this post

Câu chuyện 1

Từ bé Quỳnh đã nổi tiếng học giỏi và đối đáp nhanh. Trong làng có ông Tú Cát cực kì hợm hĩnh mình, đi đâu cũng khoe mình hay chữ. Quỳnh rất ghét những loại người như vậy. Một hôm Quỳnh đang đứng coi đàn lợn ăn cám trong chuồng, Tú Cát đi qua trông thấy, liền gọi Quỳnh lại và bảo:

– Ta nghe đồn mày thông minh và có tài đối đáp. Bây giờ ta ra cho mày một câu đối, nếu như không đối được, ta sẽ đánh đòn. Nói rồi, Tú Cát lên giọng, gật gù ngâm nga:

– Lợn cấn ăn cám tốn.

Tú Cát quan niệm rằng câu này rất khó đối, ví “cấn” và “tốn” là hai quẻ trong kinh Dịch nào ngờ. Quỳnh đối lại ngay:

– Chó khôn chớ cắn càn.

Quẻ này cũng có “khôn” và “càn” là tên hai quẻ trong kinh Dịch, đồng thời lại có ý xỏ Tú Cát là chó. Không ngờ bị chơi đau như vậy, Tú Cát tức lắm, hằm hằm bảo:

– Được! Ta ra thêm vế nữa, phải đối lại ngay – rồi đọc – Ttrời sinh ông Tú Cát.

Quỳnh đáp luôn:

– Đất nứt con bọ hung.

Tú Cát tức đến sặc tiết nhưng không làm gì được, vì Quỳnh đối cực kì chỉnh, đành lùi thủi đào thải.

Câu chuyện 2

Lần đầu tiên NASA (Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ) đưa người lên không gian, họ phát hiện thấy rằng bút bi không thể viết được trong môi trường phi trọng lực.

Để khắc phục nỗi lo này, NASA đã thành lập một nhóm bào chế sản xuất loại bút có thể dùng trong trạng thái không trọng lượng, có khả năng viết ngược xuôi tùy ý trên hầu như mọi bề mặt làm việc ở bất kỳ nhiệt độ nào. Chương trình duy trì 3 năm và ngốn mất một ngân khoản 7 triệu USD. Trong thời gian đấy, Vova là cậu bé người Nga đã chọn cách giản đơn đánh bại mọi cách đấy là sử dụng bút chì và được vinh danh cho cả nước Nga.

Câu chuyện 3

Làng nọ có một anh tham ăn tục uống. Hễ ngồi ăn cơm, ăn cỗ với ai thì thế nào anh ta cũng gắp miếng to, miếng ngon.

– Sao lại thế?

– Tôi được ăn ở đây mâm cao cỗ đầy, nhưng vợ con ở nhà chưa có cái gì bỏ vào bụng, nghĩ thương quá tôi khóc, có thể nước mắt nước mũi trào ra đó.

Câu chuyện 4

Có một ông một thời gian lâu đến nhà ông bạn thân chơi. Khách chủ gặp nhau chuyện trò rôm rả. Chủ kiếm trầu mời khách tuy nhiên giữa cơi trầu chỉ có mỗi một miếng. Chủ khẩn khoản mời mãi, khách đành phải ăn.

Cách một thời gian sau, ông này nhớ bạn lại đánh đường sang thăm trả.

Thấy bạn đến, ông kia mừng lắm, mời lên nhà ngồi. Chuyện trò lại rôm rả.

Ông này cũng bày ra giữa cơi chỉ có mỗi một miếng trầu và khẩn khoản mời.

– Không đâu ạ, đấy chủ đạo là miếng trầu bác mời dạo nọ đấy ạ. Tôi ngậm nên nó hơi bị giập ra.

Câu chuyện 5

Vì là dân ngụ cư, Xiển thường bị bọn cường hào trong làng chèn ép. Ðể trả thù, nhân một hôm cả bọn đang họp việc làng, chè chén cãi nhau ỏm tỏi, Xiển tìm một cái nồi vỡ, bỏ vào tít cứt người lẫn nước, đem đến chỗ đầu gió vừa đun vừa khuấy. Gió đưa mùi thối bay vào chỗ bọn cường hào đang họp. Chúng không chịu được, chạy ra la mắng ầm ĩ. Xiển xin lỗi và phân trần:

– Thưa các ông, nhà tôi có một ổ chó con trở chứng, đòi ăn cứt sốt, cho có thể phải đun cho chúng một ít.

Lý trưởng trừng mắt hỏi:

– Ai bảo chú làm thế.

Xiển đáp:

– Thưa các ông, người ta thường nói: “Lau nhau như chó đau tranh cứt sốt”. Thấy người ta nói như vậy thì tôi cũng làm như vậy thôi.

Câu chuyện 6

Có hai anh kết nghĩa đen sách. Một anh gặp may thi đỗ, ra làm quan, liền trở mặt. Bạn đến thăm nhiều lần, lần nào cũng cho lính ra bảo, khi thì ngài giấc, ngài ngơi, khi thì ngài bận việc công không tiếp.Năm bảy phen nhứ thế, anh này giận lắm.

Một hôm, anh ta mua một con lợn, quay vàng, để lên mâm bưng tới. Lính lệ vào bẩm, một lát trở ra, niềm nở mời vào. Vào đến nơi, quan chào hỏi cồn vã rồi sai lính lệ mang trầu ra mời. Anh ta cầm thu thập miếng trầu, đút vào miệng con lợn, vái nó mấy vái mà rằng.

– Tao trả ơn mày! Nhờ mày tao mới lại lọt vào đến cửa quan để xem lại mặt ban cũ!

XEM THÊM Top 5 đất nước đáng sống nhất trên thế giới mà ai cũng muốn thử

Truyện Cười Dân Gian: Treo Biển

Treo biển

Một cửa hàng bán cá làm cái biển đề mấy chữ to tướng:

“Ở ÐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI”

Biển vừa treo lên, có người qua đường xem, cười bảo:

– Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ lại phải đề là “cá tươi”!

Truyen cuoi, Nhà hàng nghe nói, xoá ngay chữ “tươi” đi. Hôm sau, có người đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo:

– Người ta chẳng nhẽ đến hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề là: “Ở đây”!

Nhà hàng nghe có lý, xóa hai chữ “Ở đây” đi.

Cách vài hôm, lại có một người khách đến mua cá, cũng nhìn lên biển, cười bảo:

– Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là “có bán”!

Nhà hàng nghe nói, lại bỏ ngay hai chữ “có bán” đi. Thành ra trên biển chỉ còn có mỗi chữ “cá”! Anh ta nghĩ bụng chắc từ bây giờ không ai còn bắt bẻ gì nữa. Vài hôm sau, người láng giềng sang chơi, nhìn cái biển nói:

– Chưa đi đến đầu phố đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần nhà thì đã thấy đầy những cá, ai mà chẳng biết là bán cá, còn đền biển làm gì nữa!

Thế là nhà hàng cất nối cái biển.

Một thầy đồ ngồi dạy học ở nhà nọ. Vợ chủ nhà ốm chết. Chủ nhà nhờ thầy làm một bài văn tế. Thầy nghĩ mãi không ra. Nhớ đến bài văn tế bố mình chết năm ngoái, thầy bèn sao lại, đưa cho chủ nhà. Lúc đọc, mọi người đều cười ầm lên. Chủ nhà trách:

– Sao thầy lại có thể nhầm như thế được?

Thầy trừng mắt, nói:

– Văn tế người chết hẳn hoi! Nhầm thế quái nào được. Họa chăng người nhà ông chết nhầm thì có!

Một truyện cười tiếu lâm hài hước nhưng qua đó cũng là lời phê phán những thầy đồ, những nhà giáo tha hóa, biến chất không xứng đáng đứng trong hàng ngũ của nghề dạy học phải không các bạn?

Phân Tích Truyện Cười Dân Gian Treo Biển

Treo biển là câu chuyện cười đầy hài hước thông qua việc treo biển của anh hàng cá, sau những tiếng cười đầy sảng khoái, ông cha ta đã ngầm phê phán những kẻ thiếu chính kiến, dễ bị tác động. Phân tích truyện cười dân gian Treo biển.

1. Mở bài

Giới thiệu truyện cười Treo biển: Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”.

2. Thân bài

-Tóm tắt nội dung truyện: Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”.

-Phân tích sự góp ý của những người xung quanh về chiếc biển: Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”

-Phân tích cách hành xử của chủ cửa hàng với chiếc biển: Tiếng cười bật ra từ chính cách hành xử của ông chủ cửa hàng với chiếc biển của mình, cho thấy ông ta là một người thiếu chính kiến, ba phải, khi nghe lời mọi người nói, không cần biết đúng sai, phải trái ông đều răm rắp làm theo

-Phân tích tiếng cười của truyện: Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm

3. Kết bài

Ý Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những nghĩa truyện cười dân gian Treo biển: con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

II. Bài tham khảo

Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện cười chính là một món ăn tinh thần cho nhân dân sau những ngày lao động vất vả. Và trong số các truyện cười đó, không thể không nhắc tới truyện “Treo biển”. Truyện không chỉ mang lại tiếng cười vui vẻ, hài hước mà còn mang tính phê phán những con người ba phải, dễ dàng nghe và làm theo lời người khác mà không có sự suy xét.

Nội dung truyện kể về một cửa hàng bán cá, nhằm muốn giới thiệu cho mọi người biết đến sản phẩm của gia đình mình, cửa hàng đã thiết kế một cái biển đề to với dòng chữ: “Ở đây có bán cá tươi”. Nghe có vẻ chiếc biển đã đầy đủ nội dung, sẽ chẳng có ai có thể bắt bẻ được điều gì, thế nhưng sự thật lại hoàn toàn ngược lại. Đã có rất nhiều người đi qua và bàn tán, góp ý về chiếc biển đó. Người thứ nhất đi qua thì cho rằng: “Nhà này ngày xưa quen bán cá ươn hay sao mà giờ phải đề biển là cá tươi” ; thêm một người nữa, lại nói: “Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề ở đây”; người thứ ba nghe có vẻ bắt bẻ: “Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra để khoe hay sao mà phải đề là có bán” ; cho tới người cuối cùng, sự bắt bẻ đã tới tận cùng: “Chưa đi đến đầu phố đã ngửi mùi tanh, đến gần nhà thì thấy đầy những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa”.

Việc treo biển chỉ là việc nhỏ, không có ảnh hưởng gì to tát nhưng từ những việc nhỏ sẽ dẫn đến những việc lớn, một khi con người ta đã thiếu chính kiến trong việc nhỏ thì khó mà có chính kiến được trong việc lớn. Từ đó không chỉ hỏng những việc nhỏ mà kéo theo hỏng cả những việc lớn. Tất cả chỉ vì nghe theo lời người khác mà không có sự suy xét đúng sai của bản thân, hậu quả thật khôn lường. Câu chuyện có kết cấu ngắn gọn, mạch lạc và rõ ràng, chỉ bao gồm lời văn giới thiệu, bốn lời thoại của người đi đường, khách mua cá, người láng giềng nhưng lại tạo ra tiếng cười giòn giã. Người đọc cười vì sự ba phải, ngẩn ngơ và tình nóng vội của người chủ cửa hàng cá, sẵn sàng sửa biển, cất biển chỉ vì lời nhận xét của mọi người. Bên cạnh đó tình huống truyện kịch tích cũng góp phần không nhỏ tạo nên tiếng cười trong tác phẩm.

Tóm lại, truyện cười “Treo biển” đã mang lại tiếng cười vui vẻ cho người đọc, lên tiếng phê phán về những con người thiếu chính kiến trong suy nghĩ và hành động. Nhắc nhở mọi người nên có những sự suy xét và cân nhắc trước mọi lời góp ý của những người xung quanh.

Theo chúng tôi

Phân Tích Truyện Cười Dân Gian Mua Cua.

Phân tích truyện cười dân gian Mua cua.

Như một màn hài kịch ngắn, truyện “Mua cua” có bốn vai hề, nhưng buồn cười nhất là vị quan huyện.

Chuyện vợ chồng anh chàng nhà quê là một tình tiết bi hài. “Đi cho biết đó biết đây… “, anh nhà quê cũng phải ra chơi thiềng thị một chuyến. Nghe người ta nói đến con cua, con hoành hành, con công tử vô tràng, con hai càng tám ngoe, cái tên lạ hoắc, nhưng người ta nói thịt nó ngon. Lên giọng phong lưu trưởng giả, về nhà anh ta sai vợ xuống chợ Dinh “mua cho được một con cua, để mà ăn thử cho biết nó ngon thế nào”… Vợ đem tiền xuống chợ, thấy con sam cũng có ngoe, có càng, ngỡ là cua, bèn mua một con đem về cho chồng. Dân nhà quê thì lạ chi con cua nữa? Anh chồng quê mùa cục mịch học đòi làm sang, còn mụ vợ thì đần, đến con cua cũng không biết. “Khổ nhất vợ dại trong nhà… Vô duyên vớ được chồng đần”, đó là bi kịch. Hai vợ chồng anh nhà quê “đánh lộn, la lảng” về chuyện con cua, con sam, đó là chuyện bi hài.

Chú xã xuất hiện. Chú xã ở đây là bọn “lí toét” ở chốn hượng ẩm. Chú xã thấy con sam có đuôi, “nói là con cá đuối, xử hai đàng phải thất”, nghĩa là cả hai vợ chồng anh nhà quê đều sai, đều thua kiện. Cái đáng cười ở đây là lí sự của chú xã, của bọn hào lí làng quê ngày xưa.

Màn hài kịch lại có thêm vai hề mới. Công đường, chốn nha môn trở thành sân khấu hề. Quan huyện xuất hiện và “dạy” đem cua cho người xem, rồi “phê thị ” vào giấy để “cho làng cùng hai vợ chồng biết ai quấy, ai phải”

Hình như quan huyện là “một nhà thơ”, nên quan đã “phê thị” bằng thơ. Bốn câu đầu, quan đã chỉ ra: cua, rùa, cá đuối đều là sai cả, sai hết: “Cả ba đường giai quấy cả ba”.

Quan lớn là “cha mẹ “, là bậc “phụ mẫu chí tôn “, là “đèn giời soi xét”.Quan rất tự hào về vị thế, về trách nhiệm của mình:

“Hễ con dại thì có mẹ cha

Dân dại cậy cùng quan trưởng”.

Chúng ta từng biết quan trưởng là một nhà thơ, nhưng khi nghe quan xướng đọc lời phê thì ta lại biết thêm “ngài” còn là một vị quan rất hay chữ. Quan nói bằng chữ Hán. Nào là “phê minh chỉ thượng”, nào là “giao phi”. “Phê minh ” nghĩa là phê rõ ràng, minh bạch; “chỉ thượng” nghĩa là trên giấy (chỉ: giấy; thượng: trên). “Phê minh chỉ thượng” nghĩa là phê rõ ràng minh bạch lên trên giấy. “Giai phi” nghĩa là đều sai. Đúng là “giọng nhà quan có gang có thép”

“Để ông phê minh chỉ thượng cho khỏi hoài nghi:

Cua, rùa, cá đuối – giai phi! ”

Không khí nha môn trở nên nghiêm trang. Câu chuyện như được “thắt lại ” để tiếng cười bật ra trước cử chỉ “coi lại ” và lời phê phán của quan với giọng “ờ, ờ”:

“Ờ, ờ đem cho ông coi lại,

Ấy chỉ thị là con bò cạp nước”

Con sam mà mụ vợ anh nhà quê tưởng là con cua, anh nhà quê cho là con rùa; thằng cha xã bảo là con cá đuối. Đến quan huyện thì con sam đã trở thành con bò cạp nước. Xưa nay, chưa hề có con vật nào gọi là con bò cạp nước cả. Quan bịa ra một cách buồn cười. Đúng là “muốn nói gian làm quan mà nói”

Truyện “Mua cua ” châm biếm sự dốt nát và cách chống chế sự dốt nát trong cuộc đời. Sâu xa hơn nữa, qua truyện “Mua cua “, dân gian đã chế giễu sự dốt nát nhưng lại làm ra vẻ công minh, sáng suốt của bọn quan lại. Những vị “quan trưởng” ấy trong xã hội nào cũng chỉ là những vai hề lố bịch. Dân đen biết cậy nhờ vào ai?

Nguồn: chúng tôi