Top 6 # Xuất Xứ Bài Thơ Bếp Lửa Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Đề Xuất 10/2021 # Mở Bài Bài Thơ Bếp Lửa # Top Like

Xem 99

Cập nhật nội dung chi tiết về Mở Bài Bài Thơ Bếp Lửa mới nhất ngày 01/10/2021 trên website chúng tôi Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 99 lượt xem.

Các em cùng tìm hiểu cách viết Mở bài bài thơ Bếp lửa, một bài thơ thấm đẫm tình cảm gia đình của nhà thơ Bằng Việt để qua đó trau dồi, nâng cao hơn nữa kĩ năng viết mở bài cho bài văn của mình thêm hoàn thiện, ngắn gọn và mang tính thuyết phục hơn.

Một số cách mở bài bài thơ Bếp lửa hay, đặc sắc.

5 cách Mở bài bài thơ Bếp lửa

Trong cuộc đời này ai cũng trải qua những năm tháng tuổi thơ ngây ngô, hồn nhiên và trong sáng, tuổi thơ ấy gắn liền với bao kỉ niệm vui buồn, chính những kỉ niệm tuổi thơ là hành trang không thể thiếu khi ta trưởng thành bước trên đường đời. Bằng Việt khi viết bài thơ “Bếp lửa” cũng đang là một cậu sinh viên, ở độ tuổi mới trưởng thành người cháu nhớ về những kỉ niệm ấu thơ bên bà, mỗi ngày cùng bà nhóm bếp lửa. Những năm tháng tuổi thơ sống bên bà đã cho Bằng Việt cảm nhận được tình yêu thương vô bờ, sự hy sinh cao cả của bà, hơn thế là tình cảm bà cháu thiêng liêng, sâu đậm.

Bài thơ “Bếp lửa” – một trong những sáng tác đầu tay của nhà thơ Bằng Việt được ra đời khi tác giả đang là sinh viên tại nước ngoài, ở độ tuổi trưởng thành lại phải xa quê hương, Bằng Việt dường như không thể kìm nén được sự nhớ thương về người bà nơi quê nhà. Bài thơ được viết nên bằng những hồi tưởng về kỉ niệm thơ ấu của cháu bên bà, những dòng suy ngẫm về tình cảm của bà và tình bà cháu thiêng liêng, sâu nặng, hình ảnh bếp lửa trong bài thơ trở thành một điểm tựa khơi gợi những kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ của nhà thơ về tình bà cháu và gia đình, xa hơn đó là những suy nghĩ về tình yêu quê hương, đất nước của một người con xa quê.

Bài thơ ‘Bếp lửa” của nhà thơ Bằng Việt là một bài thơ hay viết về tình cảm bà cháu nhưng lại được chan hòa với tình yêu quê hương đất nước. Có thể nói trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt có bóng dáng của biết bao tâm hồn tuổi thơ như chúng ta, tuổi thơ của tác giả gắn với hình ảnh người bà kính yêu, tần tảo, hy sinh, gắn với hình ảnh bếp lửa nồng đượm. Bài thơ không chỉ cho chúng ta cảm nhận được những cảm xúc chân thành của tác giả đối với người bà và ca ngợi tình cảm bà cháu thiêng liêng mà còn nhắc nhở về vai trò của tình cảm gia đình trong cuộc sống.

Trong cuộc sống của chúng ta không thể thiếu đi tình cảm gia đình, đó có thể là tình bà cháu, cha con, anh em ruột thịt, có trưởng thành và bước ra ngoài cuộc sống hay rời xa quê hương ta mới càng thấu rõ sự thiêng liêng, trân quý của tình cảm gia đình. Bằng Việt viết bài thơ “Bếp lửa” trong hoàn cảnh xa nhà, xa quê hương đã cho người đọc được cảm nhận những dòng hồi tưởng xúc động, những suy ngẫm đầy triết lí về người bà và tình cảm của hai bà cháu. Đọc thơ của Bằng Việt ta như được sống lại với những năm tháng tuổi thơ với biết bao kỉ niệm đáng nhớ, có người bà tần tảo sớm hôm, có bếp lửa bập bùng sớm tối.

Ý Nghĩa Hình Tượng Ngọn Lửa, Bếp Lửa Trong Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt

Ý nghĩa hình tượng “ngọn lửa”, “bếp lửa” trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt

Bằng Việt rất thành công khi xây dựng hình tượng bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà hiền hậu. Hình ảnh “ngọn lửa”, “bếp lửa” trong bài thơ mang ý nghĩa biểu trưng đặc sắc.

Trước hết, hình ảnh bếp lửa vốn là hình ảnh thật của bếp lửa mà ngày ngày người bà nhen lửa nấu cơm. Bếp lửa ấy ăn sâu vào đời sống tinh thần của con người, gắn chặt với niềm tin tâm linh vững chắc: sự che chở và phù trợ cuộc sống con người của vị thần lửa.

Nhưng bếp lửa lại trở thành hình ảnh tượng trưng, gợi lại tất cả những kỷ niệm ấm áp của hai bà cháu. Lửa thành ra ngọn lửa tình yêu, lửa niềm tin, ngọn lửa bất diệt của tình bà cháu, tình quê hương đất nước. Bếp lửa mà người bà ấp iu hay chính là tình yêu thương mà bà nâng niu dành tất cả cho cháu, từ việc dạy cháu làm, chăm cháu học, bảo cháu nghe. Bếp lửa cũng là nơi bà nhóm lên tình cảm, khát vọng cho người cháu. Nhóm lửa do đó cũng vừa có nghĩa thực, vừa có ý nghĩa tượng trưng.

Bài thơ mở ra hình ảnh bếp lửa, gợi những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà. Từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm, thấu hiểu cuộc đời bà, về lẽ sống của bà. Cuối cùng, trong hoàn cảnh xa cách, đứa cháu gửi nỗi nhớ mong được gặp. Hình ảnh “bếp lửa”, “ngọn lửa” trải qua bao thời gian, bao biến đổi rồi cuối cùng đi về với lòng người, trở thành sức mạnh tinh thần chiến thắng nghịch cảnh, vươn tới những gì cao đẹp nhất.

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Xuất Xứ Của Bài Thơ “Gửi Lời Chào Lớp Một”

Từ thập kỷ 80, bài thơ “Gửi lời chào lớp Một” đã được đưa vào sách giáo khoa và vẫn hiện hành với sách cải cách. Đã có những nhầm lẫn về xuất xứ bài thơ và cuối cùng cũng tìm ra xuất xứ tin cậy nhất. Xin tổng hợp các thông tin để chia sẻ với các bạn.

Bài thơ “Gửi lời chào lớp Một”

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Cố sẽ xa chúng em…

Cô sẽ luôn ở bên.

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Lời bình của nhà văn Phạm Khải

Nghi ngờ sách giáo khoa ghi sai tên tác giả

Ở SGK Tiếng Việt lớp 1 (tập 2) dưới bài thơ ghi tên tác giả là Hữu Tưởng. Người đưa nghi vấn đầu tiên về tác giả là nickname Tran Trung.

Trên trang cá nhân của mình, Tran Trung chia sẻ: “Internet thật là tuyệt! Nhờ nó mà tình cờ mình biết được bài thơ quen thuộc một thời Gửi lời chào lớp Một là lời bài hát trong bộ phim Liên Xô (cũ) Maruxia đi học, sản xuất năm 1948″.

Những độc giả khác truy tìm trên mạng thì thấy quả kịch bản của phim Maruxia đi học này có lời bài hát Nga tựa như bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong SGK. Dòng trạng thái này của Tran Trung được nhiều bạn bè, cư dân mạng chia sẻ với nhiều câu hỏi.

Nickname Uyên Thảo Trần Lê cung cấp thêm thông tin: “Bài thơ này tôi nhớ học từ năm lớp 1 cách đây 50 năm, khi ấy người ta ghi là phỏng thơ”. Nickname Mai Anh cũng viết: “Bài này hồi mình học năm 1970 đã biết là của Nga mà”.

Qua tìm hiểu, được biết sau năm 1975, SGK lớp 1 có hai lần được sửa chữa. Lần chỉnh sửa thứ nhất là năm 1979, xuất bản năm 1981. Lần chỉnh lý thứ hai là năm 1989, xuất bản năm 1994. Sách Tiếng Việt lớp 1 được lưu hành hiện nay dựa trên bản chỉnh lý năm 1994.

Ý kiến các nhà làm sách giáo khoa

PGS.TS Đặng Thị Lanh, chủ biên của sách Tiếng Việt lớp 1 hiện hành, cho biết bản chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1994 dựa trên sách Tập đọc lớp 1 xuất bản năm 1981.

Lúc đó, sách vẫn đề tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một là “theo Hữu Tưởng”. Còn với những bản gốc trước năm 1981, bà Lanh cho hay bà cũng không biết nên chưa có cơ hội đối chiếu.

“Tôi cũng không biết tác giả Hữu Tưởng là ai. Khi làm sách thì chúng tôi không thể gặp từng tác giả một. Chúng tôi chỉ trích lại theo nguồn (năm 1981) mà thôi” – bà Lanh nói.

Thạc sĩ Trần Mạnh Hưởng – người cùng tác giả Nguyễn Có được giao chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1989 – cũng xác nhận bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong quyển Tiếng Việt lớp 1 hiện hành được trích lại từ sách Tập đọc lớp 1 năm 1981, ghi tác giả bài thơ là “theo Hữu Tưởng”, còn bản hiện hành để tên tác giả là Hữu Tưởng.

Theo ông Đào Duy Mẫn – nguyên phó vụ trưởng Vụ Giáo dục phổ thông, một đồng nghiệp cũ của ông Hữu Tưởng – thì ông Hữu Tưởng tên thật là Nguyễn Hữu Tưởng, nguyên viện phó Viện Khoa học – giáo dục trước đây, đã mất vào những năm 1980. Theo đánh giá của ông Mẫn thì tác giả Hữu Tưởng là một đồng nghiệp rất uy tín.

Như vậy, xung quanh tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một đã có nhiều thông tin lẫn lộn – học sinh thuộc những năm 1970 cho biết bài thơ được phỏng theo một ca khúc Nga, học sinh từ năm 1981 đến nay hiểu là thơ của Hữu Tưởng.

Để giải quyết sự không rõ ràng này, chúng tôi Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Người làm sách cần phải tra cứu lại những bản sách trước sách Tập đọc năm 1981, xem lại bài thơ có giống như bài hát Nga đã nói không. Nếu có, cần phải chú thích lại cho rõ”.

Xuất xứ bài thơ theo tài liệu lâu nhất

Sau khi đọc bài viết “Gửi lời chào lớp Một: Thơ của ai?” (Tuổi Trẻ ngày 7/7/2015), ông Lê Khánh Hoài (bút danh Châu La Việt) đã nhận ngay ra đây là bản dịch của cha ông – nhà báo Lê Khánh Căn.

Tại Thư viện Quốc gia, ông Lê Khánh Hoài đã tìm thấy bản dịch truyện Ma-rút-xi-a đi học gồm hai tập do NXB Kim Đồng in năm 1959 với số lưu chiểu lần lượt là 6.379 và 6.511.

Ngay trang đầu tập truyện dịch (in lần đầu năm 1958), lời nhà xuất bản có ghi: “Xin giới thiệu với các em tập truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác. Đây là một truyện rất quen biết của các em nhỏ Liên Xô, đã được quay thành phim lấy tên là Em nữ sinh lớp một… Lần tái bản này chúng tôi có lược bớt đi một số đoạn. Mong rằng sau này sẽ có dịp giới thiệu với các em toàn bộ cuốn truyện”.

Đáng chú ý là ở cuối tập hai của truyện có in toàn bộ bài thơ được dẫn dắt như sau:

“Toàn lớp hai “A” kéo ra đầy sân khấu. Các em hát: Lớp một ơi, lớp một!/Đón em vào năm trước;/Năm nay lên lớp hai,/Gửi lời chào tiến bước!/ Phấn, bảng, sổ gọi tên,/Theo chúng em cùng lên/Chúng em dần lớn mãi,/Bàn ghế cùng lớn thêm,/Chúng em chơi thân mật/Yêu thương cả mọi người,/Đứa bạn em yêu nhất/Cũng cùng lên lớp hai./Còn cô giáo thân mến/Cô sẽ xa chúng em?/Không, cô yêu chúng em/ Cô cũng lên lớp chứ./Thế là cùng vui vẻ,/Chúng em tiến bước đều,/Cùng cả trường cả lớp,/Cùng Tổ quốc thân yêu!…

Khánh Như trích dịch (theo bản Pháp văn Maroussia va à l’ecole của Nhà xuất bản Ngoại Văn Liên Xô)/ In 5.065c tại Nhà máy in Tiến Bộ – Hà Nội. Gửi lưu chiểu tháng 3-1959.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Khánh Hoài nói: “Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bố tôi làm bí thư Đoàn Trường Khải Định ở Huế, sau đó cùng với bác Trần Hoàn đi theo kháng chiến. Năm 1956, bác Tố Hữu cử ông sang làm Sở Báo chí trung ương. Năm 1957 ông về làm báo Nhân Dân với bút danh Hồng Chuyên. Với vốn tiếng Pháp của mình, ông đã dịch tập truyện Ma- rút- xi-a đi học do NXB Kim Đồng ấn hành.”

“Theo tôi nhớ, bản in lần đầu năm 1958 có ghi Lê Khánh Căn dịch. Đáng tiếc bản này tôi không tìm thấy nữa. Đến lần tái bản 1959, ông lấy tên con gái út mà ông yêu quý là Khánh Như để đặt bút danh. Đây là bản Thư viện Quốc gia còn lưu. Như vậy từ năm 1958-1959 đã có Ma-rút-xi-a đi học này rồi. Đến năm 1971, tập truyện tiếp tục được NXB Kim Đồng tái bản và dồn lại thành một tập”.

Về câu chuyện dư luận đang quan tâm, ông Khánh Hoài giải thích: “Theo như tôi tìm hiểu qua các bản in bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong sách giáo khoa lớp 1, lần đầu tiên phần tác giả được ghi là Hữu Tưởng (theo quyển Ma- rút- xi-a đi học), lần in thứ hai chỉ đề là Theo Hữu Tưởng, lần ba chỉ còn Hữu Tưởng – lúc đó ông Hữu Tưởng đã mất rồi. Không hiểu sao lại ghi như vậy? Trong khi lẽ ra bài thơ này chính xác nhất phải viết là: “Dựa theo truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác (Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một” – PV), bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959″.

Bản gốc bài hát

LỜI CHÀO LỚP MỘT

Đây là bài hát rút từ đoạn kết kịch bản phim “Nữ sinh lớp một” (Первоклассница – Режиссёр Илья Фрэз, Союздетфильм, 1948) của nhà văn, nhà soạn kịch Nga Evghenhi Lvovich Shvarts (Евгений Львович Швaрц, 1896 – 1958), tác giả của những truyện cổ tích tân biên nổi tiếng như “Phép lạ đời thường”, “Cái bóng”, “Lọ lem”, “Giết rồng”… Năm 1949, Shvarts công bố kịch bản “Nữ sinh lớp một” như một truyện vừa.

BigSchool: Như vậy, dưới bài thơ ở sách giáo khoa nên ghi: Dựa theo truyện “Ma-rút-xi-a đi học” của nhà văn Liên Xô Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một”. Vì ông Hữu Tưởng đã mất nên không hiểu ông đọc bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959 hay ông đọc thẳng bản tiếng Nga hay tiếng Pháp? Dù là cải biên hay phóng tác theo lời bài hát đã có, tác giả Hữu Tưởng vẫn đáng để chúng ta ghi nhận công của ông. Với những tác giả giáo khoa thì đây cũng là điều cần chú ý khi đưa các tác phẩm vào sách của mình.

Các bạn có thể xem và nghe bài hát này ở phần kết của video:

Nguồn: Báo Tuổi trẻ và FB của TS. Đỗ Hải Phong