Top 6 # Xuất Xứ Bài Thơ Cảnh Khuya Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Cảnh Khuya

Cảm nghĩ về bài thơ Cảnh Khuya

Đề bài: Anh chị hãy phát biểu cảm nghĩ của em về bài thơ Cảnh khuya của Hồ Chí Minh

Mở bài Cảm nghĩ về bài thơ Cảnh Khuya

Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Hồ Chí Minh đã có khoảng thời gian dài làm cách mạng tại Pác Pó, Bác đã sáng tác bài “Cảnh khuya” là một trong những bài thơ nổi tiếng của Người, Người cũng chính là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, để lại cho nền văn học Việt Nam.

Thân bài Cảm nghĩ về bài thơ Cảnh Khuya

Bài thơ “Cảnh khuya” được Hồ Chí Minh sáng tác năm 1947, những năm thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là khoảng thời gian rất khó khăn và vất vả đối với cách mạng nước ta, Bác viết trong thời gian hoạt động cách mạng tại chiến khu Việt Bắc, qua đó cũng vẻ lên bức tranh thiên nhiên Pác Pó trong đêm khuya rất sống động và hữu tình.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Hai câu thơ đầu tiên được Người miêu tả một khung cảnh thiên nhiên đầy sinh động, và cũng thật mơ mộng, một sự kết hợp hài hòa, giữa cảnh vật và ánh trăng.

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa

Trong không gian thanh tĩnh của đêm khuya, tiếng suối chảy róc rách được tác giả ví như tiếng hát rất trong trẻo và bình lặng, sử dụng nghệ thuật so sánh làm tăng thêm sự du dương của tiếng suối, cảnh vật vì thế mà cùng hòa nhịp đung đưa theo tiếng suối. Hình ảnh ánh trăng được xuất hiện trong bài hòa vào với những cây cổ thụ, với những bông hoa. Từ “lồng” biểu thị cho sự đan xen, hòa hợp với nhau, ánh trăng soi xuống những cây cổ thụ, bóng trăng lại hòa quyện cùng hoa tạo nên một khung cảnh thiên nhiên đầy thơ mộng. Đưa người đọc đến với những cảm xúc yên tĩnh, đầy ý thơ.

Khung cảnh như vậy làm sao mà tác giả có thể hờ hững được, trong đêm khuya khi Bác vẫn còn đang làm việc, thiên nhiên mộng ảo như vậy khiến Người tạm gác công việc sang một bên để bước ra ngắm cảnh khuya nhiều sức hút như vậy, khung cảnh được Hồ Chí Minh thu trọn trong tầm mắt, vẽ lên cảnh thiên nhiên thật đẹp như tranh vẽ.

Hình ảnh ánh trăng hiện lên kết hợp với cảnh vật cho thấy tâm hồn một tình yêu dành cho thiên nhiên của Bác Hồ, ánh trăng chính là người bạn tri kỉ của Người cứ như nó soi sáng cùng Bác trong đêm khuya, khiến cho cảnh vật dưới ánh trăng cũng có thêm nhịp sống.

Một sáng tác của Bác cũng nói lên được cảnh đẹp của đêm khuya nhưng Bác lại ngắm từ trong một không gian khác đó là bài ngắm trăng có đoạn:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ…

Bên cạnh những phong cảnh thiên nhiên đó chính là một tấm lòng yêu nước sâu sắc của Bác Hồ.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Người miêu tả cảnh khuya như được vẽ ra, nó quá thơ mộng, thiên nhiên trước mắt thật kì diệu khiến Người phải thốt lên, sử dụng phép so sánh như vậy càng tăng thêm sự ma mị của bức tranh thiên nhiên, lúc đó người chưa ngủ được, không ngủ vì Bác còn phải làm việc, lo việc nước việc quân, lúc đó đang diễn ra kháng chiến, Bác là một vị lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh đòi lại quyền tự do, độc lập. Mang trên vai một trọng trách rất lớn và nặng nề, vì vậy Người “chưa ngủ vì lo” lo cho anh em đồng chí đồng đội, lo cho nước nhà bao giờ mới hòa bình, Bác trằn trọc cả đêm làm sao ngủ được.

Trong cảnh đêm khuya cùng với ánh trăng và tiếng suối văng vẳng cùng tâm trạng đầy lo âu, phiền muội khiến. Tất cả mọi thứ kết hợp với nhau một cách rất tự nhiên và khăng khít. Thể hiện một tình cảm với thiên nhiên, một tâm hồn nhạy cảm và sâu lắng, lòng yêu nước sâu lặng, một tâm trạng mênh mông đều được tác giả khắc họa một cách rõ nét trong bài thơ.

Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt cực hay, có thể nói bài thơ “cảnh khuya” là một trong những bài thơ viết về ánh trăng cực hay trong cuộc đời sáng tác nghệ thuật của Bác.

Kết luận Cảm nghĩ về bài thơ Cảnh Khuya

Bằng sự kết hợp giữa cổ điển và hiện đại Hồ Chí Minh tạo nên một cảnh khuya rất sống động nhưng cũng đầy thơ mộng, đồng thời cũng thể hiện nỗi lòng của một người chiến sỹ, một vị lãnh đạo lo cho việc nước nhà, cảnh trăng đêm khuya thật đẹp và đầy sáng tạo trong hoạt động sáng tác của Người.

Theo chúng tôi

Suy Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Cảnh Khuya

Trong chương trình phổ thông, một trong số bài thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đưa vào giảng dạy đó là bài thơ “Cảnh khuya”. Bài thơ không chỉ là xúc cảm của tác giả trước cảnh sắc thiên nhiên mà đó còn là nỗi lòng của Bác trước cảnh đất nước vẫn trong cơn loạn lạc.

Bài thơ được viết năm 1947, bằng thể thơ tứ tuyệt, lấy thi hứng từ những những cảnh sắc thiên nhiên, qua khe cửa sổ thi sĩ vừa ngắm trăng vừa ngâm thơ mà lại đau đáu cảnh nước nhà. Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh ở chiến khu Việt Bắc, Bác đã sáng sác bài thơ với khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ đẹp tuyệt trần mà người thưởng thức lại như đau đáu nỗi niềm riêng trong lòng, cảnh đất nước bắt đầu những năm kháng chiến chống thực dân Pháp cam go. Bài thơ được đưa vào giảng dạy trong chương trình phổ thông với thể thơ tứ tuyệt, một thể thơ mới và phát triển. Bài thơ được mở đầu bằng câu thơ:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Hai câu thơ mở đầu mở ra khung cảnh thiên nhiên đất trờ i Việt Bắc. Cảnh trời hùng vĩ, sắc màu trong lành, thanh mát như muốn cùng con người với những bàn hoa, với những bữa tiệc dưới ánh trăng thanh mát.

Câu thơ: “Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa” gợi ra một khung cảnh êm đềm, trăng là biểu trưng cho hòa bình, tự do đang chiếu rọi. Ánh trăng, bóng trăng như gần gũi, hiền hòa với con người, trăng soi sáng chiếu cây cổ thụ, tỏa bóng dưới nhân gian, câu thơ vừa ngắn gọn, súc tích mà vừa gợi mở không gian yên ắng, tĩnh lặng. Con người dường như cũng là một trong những yếu tố được soi rọi trong buổi trăng ấy.

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Hai câu thơ tiếp là sự tiếp nối ý thơ của hai câu thơ đầu, con người hiện lên giữa thiên nhiên đất trời một cách ung dung, khác thường. Con người giữa thiên nhiên ấy ung dung, tự tại nhưng mang một cảm xúc riêng biệt, khác thường.

Câu thơ: “Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ” là câu thơ khắc họa bức chân dung về con người trong bài thơ, đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của dân tộc ta, Bác là vị lãnh tụ vĩ đại của cả dân tộc, Bác đánh đổi những giây phút riêng tư của chính bản thân mình cho đất nước, cho dân tộc những ngày sống ấm no, hạnh phúc. Bác đánh đổi những giấc ngủ để cho các chú bộ đội ngủ, Bác thức để cho cả dân tộc ta ngủ. Giữa đêm khuya, thời gian như khắc khứa vào con người những nỗi đau đáu về cảnh nước nhà, Bác như cô độc nhưng lại mang nỗi suy tư cảnh nước nhà, đất nước ta trước mắt đang đứng trước cuộc kháng chiến chống Pháp cam go, khốc liệt, thực dân Pháp được trang bị những vũ khí tối tân, hiện đại nhất. Trong khi đất nước ta mới giành được độc lập, về căn bản lại chưa được các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ công nhận, cuộc kháng chiến của chúng ta lại gặp phải nhiều khó khăn, không cân bằng lực lượng. Trong những ngày khó khăn nhất ấy, thực dân Pháp lại tiến hành chiến tranh theo chiến lược “Đánh nhanh thắng nhanh” khiến cả dân tộc ta gồng mình lên. Chính những điều ấy là nguyên nhân khiến Bác phải suy nghĩ. Dù trời có đẹp, cảnh sắc có hòa bình, êm đẹp nhưng sâu thẳm trong ấy Bác cũng vẫn đang đau đáu trong tâm nỗi nước nhà, cảnh sắc ấy, hình ảnh ánh trăng như hình ảnh của Bác – vị lãnh tụ kính yêu của cả dân tộc.

Bằng bố câu thơ tứ tuyệt, bài thơ “Cảnh khuya” đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, rộng mở, con người với nỗi niềm đau đáu trong lòng hiện lên trong bức tranh thiên nhiên ấy. Một hồn thơ với bao tâm sự, suốt đời vì nước vì dân.

Hà Vũ Hường