Top 4 # Xuất Xứ Bài Thơ Sông Núi Nước Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Soạn Bài: Sông Núi Nước Nam

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một danh tướng nổi tiếng đời nhà Lý có công lớn trong việc đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075 – 1077. Ông được cho là người đã viết ra bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc (Nam quốc sơn hà).

Ông cũng là vị tướng nổi tiếng nằm trong số 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Sông núi nước Nam là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Bài thơ được cho là thơ thần, do thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống vào năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống vào năm 1077.

* Thể thơ: Văn bản Sông núi nước Nam được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong hai thể thơ rất phổ biến ở đời Đường (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú), được du nhập sang nước ta và cũng trở thành một thể thơ phổ biến của văn học trung đại.

Quy định về thanh điệu, vần luật trong thơ thất ngôn tứ tuyệt rất chặt chẽ, tuy nhiên chỉ cần lưu ý sự hiệp vần ở chữ thứ bảy trong các câu 1,2,4 (cũng có khi là 2,4).

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thơ thất ngôn tứ tuyệt ở chú thích, bài thơ Sông núi nước Nam được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật (có 4 câu, mỗi câu có 7 chữ, gieo vần ở chữ cuối của câu thứ 1,2.4).

Câu 2:

* Sông núi nước Nam được coi như là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta được viết bằng thơ. Tuyên ngôn độc lập chính là lời tuyên bố về chủ quyền đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy.

* Nội dung chính của Tuyên ngôn độc lập trong bài thơ Sông núi nước Nam là:

Khẳng định chủ quyền, nước Nam là của người Nam (hai câu đầu)

Kẻ thù không được phép xâm phạm, nếu xâm phạm thì sẽ phải chuốc lấy bại vong.

Câu 3:

Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về sự biểu ý (bày tỏ ý kiến), nội dung đó được thể hiện theo bố cục:

Hai câu đầu: khẳng định nước Nam là của người Nam, điều này đã được “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” nên không có bất kỳ thế lực nào được phép xâm phạm.

Hai câu sau: Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nếu có ai xâm phạm, chắc chắn kẻ đó sẽ bị bại vong.

Bố cục và cách biểu ý đó rất rõ và chặt chẽ, lời nói chắc nịch dứt khoát theo mạch ý, khiến cho những luận cứ đưa ra đều hết sức thuyết phục.

Câu 4:

Ngoài biểu ý, Sông núi nước Nam vì là một bài thơ nên vẫn có biểu cảm (bày tỏ cảm xúc). Tuy nhiên, tác giả lại không bộc lộ rõ cảm xúc một cách trực tiếp mà ẩn kín vào bên trong. Chính vì thế, người đọc cần phải nghiền ngẫm mới thấy được tình cảm yêu nước mãnh liệt của tác giả được thể hiện trong bài thơ. Hay nói cách khác, nếu không có tình cảm thì tác giả sẽ không thể viết ra được những dòng thơ đầy chí khí như vậy.

Câu 5:

Qua các cụm từ “tiệt nhiên” (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), “định phận tại thiên thư” (định phận tại sách trời”, “hành khan thủ bại hư” (Chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta thấy giọng điệu của bài thơ là giọng điệu đanh thép, hào hùng.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Sông Núi Nước Nam

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Bài thơ dù cho chưa rõ tác giả thực sự là ai nhưng qua những lời kể lại thì có thể là lời thơ của Lý Thường Kiệt (1019 – 1105).

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105)

– Ông là một danh tướng lừng lẫy trong lịch sử, một hoạn quan thời Lý và có công đánh bại quân Tống xâm lăng (1075 – 1077).

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Có truyền thuyết kể lại, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông đã chỉ định Lý Thường Kiệt đem lính chặn bọn giặc ở tuyến sông Như Nguyệt, vào đêm nọ, quân sĩ nghe trong đền thờ anh em Trương Hống và Trương Hát cất lên tiếng ngâm bài thơ này.

– “Nam Quốc Sơn Hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.

Bài thơ Sông núi nước Nam

b. Bố cục

– Phần 1 (Hai câu đầu): Khẳng định chủ quyền lãnh thổ đã được phân định rõ ràng.

– Phần 2 (Hai câu cuối): Khẳng định sự quyết tâm chống lại kẻ thù.

II. Soạn bài Sông núi nước Nam chi tiết

Câu 1 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Qua bài Sông núi nước Nam nhận diện thể thơ thất ngôn tứ tuyệt về số câu, cách hiệp vần, số chữ trong câu.

– Bài thơ Nam quốc sơn hà được tác giả viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với 4 câu và 7 chữ:

+ Các câu 1, 2 và 4 hoặc chỉ có câu 2 và 4 là hiệp vần với nhau ở chữ cuối.

Câu 2 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Sông núi nước Nam được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Vậy thế nào là một bản tuyên ngôn độc lập? Nêu nội dung tuyên ngôn độc lập trong bài thơ này?

Bài thơ Sông núi nước Nam được xem là bản “Tuyên ngôn Độc lập” đầu tiên của dân tộc:

– Khẳng định tuyệt đối với các quốc gia là nước Nam chúng ta có chủ quyền riêng biệt và có hoàng đế đứng đầu trị vì dân tộc.

– Ranh giới lãnh thổ, địa phận nước Nam đã được ghi nhận rõ ràng ở “sách trời” mà không ai có thể chối cãi được.

– Nêu cao sự quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, kẻ thù nào tới xâm phạm sẽ bị đánh cho tơi bời.

Câu 3 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về sự biểu ý (bày tỏ ý kiến). Nội dung biểu ý đó đã được tác giả thể hiện theo bố cục như thế nào và nhận xét về điều đó.

Soạn bài Sông núi nước Nam thấy được sự thiên về biểu ý:

– Hai câu đầu: Khẳng định tuyệt đối chủ quyền toàn vẹn, sự độc lập, tự chủ của dân tộc:

+ Nước Nam hoàn toàn có lãnh thổ riêng, đất Nam đã có vua Nam ở

+ Phân giới lãnh thổ của người Nam đã được quy định rành rành ở sách trời, điều này đã là chân lý không thể chối cãi được

– Hai câu cuối: Khẳng định quyết tâm đứng lên bảo vệ dân tộc trước kẻ thù

+ Tác giả đã khẳng khái chỉ rõ những kẻ đem quân xâm lược nước ta là đang làm trái đạo làm người và trái cả đạo trời

+ Đưa ra sự cảnh báo đanh thép đến bọn xâm lăng rằng chúng sẽ bị tan tác trước quân và dân ta.

– Nhận xét: Bố cục được sắp xếp logic và chặt chẽ, chủ quyền được nêu trước, sau đó là biểu ý quyết tâm để bảo vệ chủ quyền.

Câu 4 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Ngoài biểu ý thì Sông núi nước Nam có biểu cảm không và nếu có thì thuộc trạng thái nào? Giải thích sự lựa chọn đó?

Nghĩa biểu cảm của bài thơ Nam quốc sơn hà:

– Sự khẳng định hùng hồn, cảm xúc đầy mãnh liệt, tinh thần mạnh mẽ, sắt đá, ý chí quyết tâm, không gì có thể khuất phục nổi.

– Cảm xúc cùng ý chí ấy được tác giả bộc lộ kín đáo qua ngôn ngữ và hình tượng.

Câu 5 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Qua các cụm từ “tiệt nhiên”, “hành khan thủ bại hư”,”định phận tại thiên thư”, nhận xét về giọng điệu bài thơ?

Đánh bại mọi kẻ thù xâm lược

Bài thơ có giọng điệu hùng hồn, đanh thép:

– Một lần nữa khẳng định chủ quyền thông qua “thiên thư” là sách trời thì đã là chân lý và không gì có thể chối bỏ hay phủ nhận được.

– Dứt khoát cảnh cáo bọn giặc sẽ phải chuốc bại vong khi gây ra tội ác cho dân tộc ta.

III. Kết luận soạn bài Sông núi nước Nam

1. Giá trị nội dung

Sông núi nước Nam ( Nam quốc sơn hà) được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc khẳng định chủ quyền đất nước. Sự khẳng định tuyệt đối chủ quyền với giọng điệu đanh thép, thể hiện sự quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, cảnh cáo bất kỳ kẻ xâm lăng nào cũng sẽ không có kết cục tốt đẹp khi đụng đến địa phận lãnh thổ đất Nam.

2. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt súc tích, ngắn gọn.

– Ngôn ngữ hùng hồn, dõng dạc, giọng thơ đanh thép, mạnh mẽ.

Hướng Dẫn Soạn Bài: Sông Núi Nước Nam

I. VỀ THỂ LOẠI

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn (bảy chữ) tứ tuyệt (bốn câu), một trong hai thể thơ rất phổ biến đời Đường (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú), được du nhập sang nước ta và cũng trở thành một thể thơ phổ biến của văn học trung đại. Quy định về thanh điệu, vần luật trong thơ thất ngôn tứ tuyệt rất chặt chẽ, tuy nhiên chỉ cần lưu ý sự hiệp vần ở chữ thứ bảy trong các câu 1, 2 và 4 (cũng có khi chỉ cần hiệp vần ở chữ thứ bảy trong câu 2 và 4). Trong bài thơ này, vần “ư” được hiệp ở cả ba câu 1, 2 và 4).

II. KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Nhận dạng thể thơ của bài Namquốc sơn hà về số câu, số chữ trong câu, cách hiệp vần.

Gợi ý: Kiểm tra xem bài thơ (phần phiên âm) gồm mấy câu, mỗi câu gồm bao nhiêu chữ? Vần trong các từ cuối của các câu 1, 2, 4 có gì giống nhau?

2. Tuyên ngôn Độc lập là lời tuyên bố về chủ quyền của đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy. Tuyên ngôn Độc lập trong bài thơ Sông núi nước Namthể hiện ở các khía cạnh:

– Tác giả khẳng định nước Nam là của người Nam. Đó là điều đã được ghi tại “thiên thư” (sách trời). Tác giả viện đến thiên thư vì ngày xưa người ta vẫn còn coi trời là đấng tối cao. Người Trung Quốc cổ đại tự coi mình là trung tâm củavũ trụ nên vua của họ được gọi là “đế”, các nước chư hầu nhỏ hơn bị họ coi là “vương” (vua của những vùng đất nhỏ). Trong bài thơ này, tác giả đã cố ý dùng từ “Nam đế” (vua nước Nam) để hàm ý sánh ngang với “đế” của nước Trung Hoa rộng lớn.

– Ý nghĩa tuyên ngôn còn thể hiện ở lờ khẳng định chắc chắn rằng nếu kẻ thù vi phạm vào quyền tự chủ ấy của nước ta thì chúng thế nào cũng sẽ phải chuốc lấy bại vong.

3. Bài thơ triển khai nội dung biểu ý theo bố cục: ở hai câu thơ đầu, tác giả đã khẳng định một cách tuyệt đối chủ quyền lãnh thổ với một thái độ của một dân tộc luôn trân trọng chính nghĩa. Từ khẳng định chân lí, đến câu thơ cuối, tác giả đã dựa ngay trên cái chân lí ấy mà đưa ra một lời tuyên bố chắc chắn về quyết tâm chống lại những kẻ làm trái những điều chính nghĩa.

Bố cục của bài thơ như thế là chặt chẽ, khiến cho những luận cứ đưa ra đều rất thuyết phục.

4. Bài thơ tuy chủ yếu thiên về biểu ý song không phải vì thế mà trở thành một bài luận lí khô khan. Có thể nhận thấy rằng, sau cái tư tưởng độc lập chủ quyền đầy kiên quyết ấy là một cảm xúc mãnh liệt ẩn kín bên trong. Nếu không có tình cảm mãnh liệt thì chắc chắn không thể viết được những câu thơ đầy chí khí như vậy.

5. Qua các cụm từ tiệt nhiên (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), định phận tại thiên thư (định phận tại sách trời) và hành khan thủ bại hư (chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta có thể nhận thấy cảm hứng triết luận của bàI thơ đã được thể hiện bằng một giọng điệu hào sảng, đanh thép, đầy uy lực.

Nguồn: chúng tôi

Cảm Nhận Về Bài Thơ “Sông Núi Nước Nam” Của Lý Thường Kiệt

CỦA LÝ THƯỜNG KIỆT

Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí – Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.

Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau:

Nam quốc sơn hà

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước – Nam Trân dịch)

Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.

Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà – Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe dọa bởi tư tưởng ngông cuồng kia.

Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!

Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha. Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.

Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí – Trần, khiến người đọc rưng rưng!

Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.

Trích chúng tôi