Top 11 # Xuất Xứ Bài Thơ Tỏ Lòng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Xuất Xứ Bài Thơ Thăm Lại Pác Bó

Ngày 19-2-1961, sau Tết Nguyên đán Tân Sửu, Bác Hồ trở lại thăm Cao Bằng – nơi 20 năm trước Người đã vượt biên giới Việt – Trung về Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng (29-1-1941) để lãnh đạo kháng chiến. Tuy vừa đi ô tô một đoạn đường dại quốc lộ 4 gập gềnh, khúc khuỷu từ Lạng Sơn lên, người mệt mỏi, sáng ngày 20-2-1961, Bác Hồ vẫn tranh thủ đi thăm Pác Bó. Ngày ấy, từ ngã ba Đôn Chương vào Pác Bó chưa có đường ô tô như ngày nay, chỉ có đường mòn cách xa 8 km, trời lại vừa mới mưa phùn nên đường lầy trơn rất khó đi.

Để bảo đảm an toàn cho Bác, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đã chuẩn bị sẵn và đề nghị Bác đi ngựa – Bác chấp thuận. Hai chiến sĩ biên phòng lo Bác ngồi trên lưng ngựa không vững bèn chạy theo hai bên để đỡ Bác. Bác gạt đi: “Các chú khỏi lo. Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, Bác làm gì có xe ô tô để đi. Nếu đi công tác chặng đường gần thì đi bộ, chặng đường xa mới có ngựa cưỡi. Bác cưỡi ngựa thạo rồi”.

Sau hai mươi năm, ngày 20-2-1961, Hồ Chủ tịch về thăm lại Pác Bó (Cao Bằng). Được gặp lại Người, bà con Pác Bó vô cùng xúc động. Ảnh: Người thăm lại suối Lê-nin (Pác Bó).

Vào đến bản Pác Bó, Bác và các đồng chí cùng đi thẳng vào hang Cốc Bó rồi mới quay ra gặp gỡ bà con dân bản. Từ bản Pác Bó vào khu vực hang Cốc Bó, ngựa không sao đi nổi, Bác phải chống gậy đi bộ. Năm ấy Bác đã bước sang tuổi 71, sức khỏe đã giảm nhiều, lại thêm phần xúc động khi trở lại thăm chốn xưa, nên đến đầu nguồn suối Lê-Nin, các đồng chí lãnh đạo tỉnh đề nghị Bác không leo núi dốc để thăm lại hang Cốc Bó nữa. Ngước nhìn lên phía hang nằm ở lưng chừng núi, Bác bùi ngùi nói:

-Thôi, đành vậy. Nhờ các chú lên thăm hang giúp Bác. Xem nhũ đá Bác tạc tượng ông Các Mác, dưới chân ông có tượng vượn người, và trên vách hang, bác có viết bằng chữ nho bằng than củi “Ngày mùng tám tháng hai, năm một nghìn chín trăm bốn mươi mốt” là ngày Bác vào ở hang có còn giữ được không?

Trong khi chờ đợi đoàn người lên thăm hang, Bác thong dong đi thăm lại những phiến đá Bác kê thay bàn thế để ngồi làm việc, thăm gốc cây ổi thường ngày Bác vẫn hái lá đun uống thay chè (trước đây chỉ với tay tầm ngang đầu là hái được từng nắm lá), nay đã trở thành một cây ổi cổ thụ vươn cao hàng chục mét, gốc đã tróc vỏ trơ lõi sần sùi, thăm phiến đá nhẵn bóng dưới gốc cây si già, khi thư giãn Bác thường ngồi câu cá bên bờ suối… gợi nhớ biết bao kỷ niệm của một thời hoạt động bí mật gian truân.

Từ trên hang xuống, đồng chí Lê Quảng Ba, người từng dẫn đường cho Bác từ Trung Quốc vượt biên giới về Pác Bó và đã được sống gần gũi với Bác suốt thời gian ở Pác Bó, năm ấy là Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Trung ương, thưa với Bác:

-Thưa Bác, đường lên hang trơn trượt, cỏ mọc đôi đoạn phủ cả lối đi. Còn trong hang, tượng ông Mác, tượng vượn người, dòng chữ nho Bác viết trên vách đều còn nguyên vẹn. Duy chỉ có những tấm phản kê làm giường cho Bác nằm thì đã mục nát cả.

Bác xúc động nói:

-Bà con Pác Bó tốt quá. Trước đây, nếu không được bà con đùm bọc, cưu mang thì làm sao Bác sống qua được những ngày cách mạng còn đen tối. Nay đã 20 năm qua đi, lại vẫn giữ gìn, bảo vệ cả cái hang Bác ở. Hôm nay, Bác rất vui. Bây giờ còn ít phút, Bác và các chú ta cùng làm một bài thơ. Chủ đề là tức cảnh thăm lại hang Cốc Bó, thể thơ thất ngôn tứ tuyệt – Các chú có đồng ý không?

Mọi người vỗ tay hưởng ứng, Bác liền chỉ tay vào đồng chí Hồng Kỳ, lúc ấy là Bí thư Tỉnh ủy Cao Bằng:

-Chú là Bí thư, chú xướng câu mở đầu.

Đồng chí Hồng Kỳ lắc đầu, gãi tai, cười trừ:

-Thưa Bác, cháu là Bí thư nhưng cháu rất là bí thơ. Cháu không biết làm thơ đâu ạ!

Bác phê bình khéo:

-Đáng lẽ chú là Bí thư thì phải giỏi làm thơ mới đúng. Thơ cũng là vũ khí cách mạng. Có khi cán bộ nói cả buổi mà quần chúng không nghe ra, nhưng chỉ đọc mấy vần thơ thì ai cũng hiểu. Thôi được, tha cho chú. Vậy, Bác chỉ định người khác vậy.

Bác nhìn quanh rồi chỉ vào đồng chí Tố Hữu:

-Đồng chí Lành vậy – Chú là nhà thơ mà.

Đồng chí Tố Hữu cũng lắc đầu cười:

-Dạ, ở đây Bác là người có tuổi hơn cả. Xin kính lão đắc thọ, mời Bác khai thơ trước ạ!

Bác cười to:

-Các chú khôn thật, định dồn Bác vào chân tường đấy phỏng? Được, Bác sẽ khai thơ vậy.

Suy nghĩ giây lát, Bác đọc hai câu mở bài:

Hai mươi năm trước ở hang này

Đảng vạch con đường đánh Nhật, Tây

Đấy, Bác mở đến nửa phần bài thơ. Bây giờ đến lượt các chú làm hai câu thơ cuối.

Mọi người vỗ tay hoan hô. Rồi mỗi người thêm một ý, góp một câu, cuối cùng Bác kết luận:

Lãnh đạo toàn dân ra chiến đấu

Non sông gấm vóc có ngày nay

Thế là bài thơ hoàn thành. Thực ra bài thơ là “Không đề”, về sau này khi xuất bản mới đặt tên bài thơ là Thăm lại Pác Bó.

Lê Hồng Bảo Anh

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Tỏ Lòng

Đề bài: Cảm nghĩ về bài thơ Tỏ Lòng

Cảm nghĩ về bài thơ Tỏ Lòng – Khi tìm hiểu về lịch sử trung đại Việt Nam chúng ta không khỏi Tự Hào hào khí Đông A của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên xâm lược. Phạm Ngũ Lão chính là một trong những danh tướng đời Trần đã lập lên nhiều chiến công hiển hách góp phần tạo nên hào khí đó. Ông không chỉ là một danh tướng mà còn là một nhà thơ tuy sáng tác không nhiều nhưng bài thơ Thuật Hoài – Tỏ Lòng là một bài thơ nổi tiếng và được nhiều người biết tới, lưu truyền rộng rãi.

Bài thơ Tỏ Lòng được làm bằng chữ Hán và viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với niêm luật chặt chẽ. Ngôn từ và ý thơ hàm súc. Bài thơ giống như là một lời tâm sự của nhà thơ về những khát khao hy vọng của một đấng nam nhi khi sống giữa trời đất. Qua đó còn bày tỏ niềm tự hào của những người lính trong quân đội nhà Trần về chiến thắng oanh liệt ấy. Ngay mở đầu bài thơ ta có thể thấy được vẻ đẹp gân guốc, khỏe khoắn của đáng nam nhi, của những chiến binh xả thân vì nước:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.”

(Múa giáo non sông trải mấy thu,

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.)

Chỉ có ý chí mà không có sức mạnh thì chưa đủ, nên tác giả đã đưa chúng ta đến với sức mạnh to lớn của quân ta:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

Chúng ta có thể hiểu rằng nhà thơ muốn nói đến “khí mạnh”, sức mạnh có thể nuốt trôi trâu của ba quân. Đây là cách nói ước lệ tượng trưng quen thuộc trong thơ trung đại. Chính vì thế ta còn có thể hiểu câu thơ này theo một cách khác đó là gợi lên khí phách của đoàn quân làm át cả sao Ngưu – một vì sao trên trời. Câu thơ còn nói lên sức mạnh to lớn còn được hình thành từ sự đoàn kết của mỗi người tạo nên một sức mạnh tổng thể, to lớn. Trâu là một loài vật biểu tượng cho sự hung hãn, mạnh mẽ và tác giả đã ví kẻ thù với loài vật này. Để chiến thắng được nó thì phải đoàn kết, sử dụng sức mạnh “ba quân” cùng với ý chí quyết tâm. Chỉ với hai câu thơ thất ngôn ngắn ngủi nhưng Phạm Ngũ Lão đã thành công khắc họa hình tượng về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.

Phạm Ngũ Lão cũng là một thành viên trong quân đội hùng mạnh ấy, tích cực tham gia chiến đấu đánh bại kẻ thù bởi trong con người ông luôn sục sôi những khát vọng công danh của bậc nam nhi, quân tử. Ông tôn thờ quan niệm như Nguyễn Công Trứ đã từng đưa ra: “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với với sông” (Chí Làm Trai). Và ở trong bài thơ này ông cũng nhắc đến khát vọng ấy:

“Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”

(Công danh nam tử còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.)

Công danh chính là khát vọng để các bậc nam nhi theo đuổi trong đời. Công danh không chỉ là cái danh hão bề ngoài mà còn phải xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân thậm chí còn đánh đổi bằng xương máu của chính mình. Có thể nói khí phách anh hùng luôn được đề cao và tạo thành chí hướng để quyết tâm của biết bao nam tử trong thời đại đó. Đây phải chăng cũng là nỗi băn khoăn, khao khát của Phạm Ngũ Lão trước khi mang danh để sánh với đời. Ông đã lấy gương sáng trong lịch sử đó là tấm gương Vũ Hầu Gia Cát Lượng xưa kia để noi theo. Qua đó cho thấy tâm niệm của tác giả khi theo phò tá vua Trần đẻ thực hiện lý tưởng cao cả.

Bài thơ Tỏ Lòng như phản chiếu về một thời đại hào hùng, một thời đại mà “vua tôi đồng lòng”. Đây cũng là bài thơ trữ tình bày tỏ những khát vọng, hoài bão lớn lao của tuổi trẻ không chỉ riêng Phạm Ngũ Lão mà của biết bao đấng nam nhí thời bấy giờ. Từ đó cho ta một cái nhìn sâu sắc hơn về thời đại nhà Trần, về Hào khí Đông A lừng lẫy trong lịch sử dân tộc. Qua đó cũng nhằm giáo dục cho mọi lớp trẻ đó là cần phải sống tích cực, có hoài bão, sống sao cho có ích với gia đình, xã hội.

Mai Du

Phân Tích Bài Thơ Tỏ Lòng (Thuật Hoài)

Các học sinh sẽ được học tác phẩm “Tỏ lòng” của tác giả Phạm Ngũ Lão trong chương trình Ngữ Văn lớp 10. Đây là một tác phẩm thơ mà đã được tác giả gửi gắm vào đó tình yêu nước nồng cháy, khát khao được cống hiến sức lực và tài năng của bản thân cho triều đại, cho đất nước. Với bài phân tích bài thơ Tỏ Lòng (Thuật hoài) – Phạm Ngũ Lão của chúng tôi có thể giúp các học tính phần nào cảm nhận được hào khí anh hùng đời Trần được truyền tải qua từng câu chữ, vần thơ.

1. “Tỏ lòng”- Tiếng nói của người thi sĩ – người anh hùng yêu nước

Phân tích bài thơ Tỏ lòng của tác giả Phạm Ngũ Lão để thấu hiểu vang vọng nỗi lòng yêu nước nước đến mãnh liệt của chính người thi sĩ – người anh hùng bất khuất đầy cảm phục của dân tộc. Đây được coi như là một kiệt tác hào hùng của dân tộc, luôn chứa chan một tình yêu nước vô bờ bến, lòng tự hào của tác giả đối với dân tộc, thể hiện một thời oanh liệt vẻ vang của các tướng lĩnh đời Trần.

Bài thơ chính là hào khí của một đấng nam nhi với đầy ắp ý chí và khát vọng chiến công khi Tổ quốc gặp nguy nan. Khi phân tích bài thơ Tỏ lòng chúng ta sẽ hiểu rõ nỗi lòng của tác giá. “Tỏ lòng” còn được coi là một bức tranh tự họa mà chính bản thân danh tướng Phạm Ngũ Lão đã họa lên. Chủ nghĩa yêu nước của tác phẩm được tác giả thể hiện qua những ngôn từ trang nghiêm, cổ kính như: “xông pha trận mạc, cầm ngang ngọn giáo…” Hình ảnh quân đội Sát Thát được hiện lên vô cùng hào khí, đông đảo, với một sức mạnh phi thường mà không kẻ thù nào có thể đánh bại. Khí thế hừng hực ấy có thể đánh tan bất kể kẻ thù nào có ý muốn lăm le xâm lược nước ta.

2. Giới thiệu về tác giả Phạm Ngũ Lão

Tác giả Phạm Ngũ Lão là người con được sinh ra trên mảnh đất Phù Ủng (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) vào năm Ất Mão – 1255. Ông sinh vào thời vương triều nhà Trần đang cùng quân dân cả nước đứng lên chống lại quân xâm lược Nguyên – Mông lần thứ 2. Xuất thân của ông đã là một huyền thoại đối với dân gian, con người làng Phù Ủng ấy với tính tình khẳng khái, ý chí khác người, luôn phấn đấu không ngừng trên con đường công danh của mình.

Có thể thấy được một người có xuất thân từ miền quê bình thường, nhưng lại lọt vào con mắt của vị đại tướng triều Trần, điều này đã chứng tỏ được tài chí của Phạm Ngũ lão cũng như khả năng dùng người của các thánh tướng thời bấy giờ. Với tài năng thiên bẩm của mình, lại được sự chỉ dạy của đích thân thánh tướng Trần Quốc Tuấn đã giúp ông mau chóng trở thành người vị tướng kiệt xuất trong cả hai lần cùng dân tộc đánh dậy đánh bại quân Nguyên – Mông. Những ngày tháng sau đó, ông trở thành phò tá đắc lực cho ba đời vua Trần, lập không ít chiến công, đánh dẹp quân Chiêm Thành và Ai Lao, cũng như dẹp loạn tại các vùng biên giới.

Vào tháng 9 năm 1284, tình hình chiến sự nước nhà có phần phức tạp, Trần Quốc Tuấn đã có quyết định giao cho Phạm Ngũ Lão nhiệm vụ bảo vệ vùng viên giới Đông Bắc của dân tộc, ông đã trở thành một vị tướng trẻ tuổi luôn lập được chiến công hiển hách và tạo dựng được niềm tin to lớn đối với các vị vua và tướng lĩnh đời Trần.

Phạm Ngũ Lão còn bộc lộ mình là một vị tướng tài ba, kiệt xuất của dân tộc. Danh tiếng của Phạm ngũ Lão luôn khiến cho quân giặc phải ái ngại, khiếp sợ, uy danh của ông được vang xa đến tận quân địch. Trong những ngày kháng chiến gian khổ, nguy hiểm, cùng với sự dày dạn chiến đấu và kinh nghiệm chiến trường đã khiến ông trở thành một biểu tượng niềm tin chiến thắng đối với tất cả các binh lính. Vị tướng xuất thân từ nông dân này, luôn làm được những điều phi thường, khiến tất cả chúng ta đều bất ngờ và nể phục.

Phạm Ngũ Lão còn là một vị tướng luôn có mặt trong những trận chiến cam go, quan trọng, luôn sẵn sàng đẩy cao tinh thần dân tộc, xông lên giết giặc làm gương cho các quân lính. Ông luôn đồng cam cộng khổ, yêu lính như người thân, trên chiến trường luôn là một người quả cảm, tiên phong, dũng cảm, biết phát huy tất cả sở trường để góp phần giúp quân đội giành chiến thắng.

Là người đức độ tài cao, Phạm Ngũ Lão đã là nhân vật đi vào lịch sự được các thế hệ mến mộ, kính trọng, những con người quê hương Phù Ủng luôn thờ và nhớ ơn ông. Đặc biệt là người dân Hưng Yên ngày nay, để tưởng nhớ công ơn của ông với đất nước, hàng năm đều tổ chức lễ hội Phù Ủng. Cho đến ngày nay, trên khắp cả nước có rất nhiều nơi lập đền thờ để thờ danh tướng Phạm Ngũ Lão, để đời đời con cháu ghi nhớ công ơn của ông.

3. Xác định yêu cầu của đề bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Đây là dạng bài văn phân tích tác phẩm văn học, cụ thể ở đây là một bài thơ của Phạm Ngũ Lão. Do đó, bạn cần trình bày những đánh giá, nhận định về tác phẩm qua từng phần, từng yếu tố của tác phẩm ấy. Sau đó tổng hợp lại. Như vậy, bài làm sẽ phân tích từng bộ phận, từng mặt của tác phẩm để tìm hiểu, nhận định. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là bài làm văn phân tích toàn bộ tác phẩm nên các bạn học sinh cần đề cập tới cả nội dung và nghệ thuật của tác phẩm để xem xét, đánh giá. Khi triển khai, bạn sẽ tiến hành phân tích từng phần của tác phẩm một cách đầy đủ, chi tiết cho từng ý. Mỗi ý sẽ chiếm một phần của bài làm.

Cuối cùng, bạn tổng hợp các ý đã phân tích ở trên và đưa ra những đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật.

Về bố cục, bài văn cũng gồm có Mở bài, Thân bài, Kết luận. Trong đó:

* Mở bài: Bạn cần giới thiệu chung về tác phẩm Tỏ Lòng như tác phẩm, tác giả và nội dung cần quan tâm.

Tác giả: Phạm Ngũ Lão là người văn võ toàn tài, từng đóng góp nhiều chiến công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông ở thời Trần.

Tác phẩm: Bài thơ nêu lên những chiến thắng vẻ vang trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm của dân tộc, là niềm tự hòa, hào khí Đông A, cũng như thể hiện chí trai của đấng nam nhi.

* Thân bài: Bạn tiến hành phân tích từng ý của tác phẩm. Mỗi ý sẽ có một đoạn. Có nhiều cách để triển khai ý của tác phẩm như theo từng cặp thơ, câu thơ hay theo trình tự xuất hiện. Lưu ý, mỗi đoạn cũng có mở đoạn, thân đoạn và kết đoạn. Các đoạn phải có câu nối, liên kết với nhau.

Cụ thể: Bài thơ có 4 câu thơ, viết thể thất ngôn tứ tuyệt đường luật. Có thể chia bố cục bài thơ làm 2 phần:

a, Hai câu thơ đầu tiên: Sức mạnh quân đội nhà Trần

” Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu

Ba quân như hổ báo, khí thể hùng dũng nuốt trôi trâu)

+ Tư thế: “Cầm ngang ngọn giáo” là tư thế hùng dũng, vững chãi, kiên cường, luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Nhiệm vụ giữ gìn non sông, đất nước, tổ quốc trong thời gian dài từ thế kỉ này sang thế kỉ khác.

+ “Tam quân”: hình ảnh chỉ quân đội nhà Trần, thể hiện sức mạnh to lớn, hùng hậu. Phép so sánh “tì hổ” “khí thôn ngưu” càng làm cụ thể hóa sức mạnh đó. Hổ báo là loài mãnh thú chốn rừng sâu, có sức mạnh dũng mãnh, khí thế hừng hực, có thể “nuốt trôi trâu”.

b, Chí làm trai và nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh

Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu)

+ Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, nợ công danh là món nợ với đời của thân trai ngay từ khi sinh ra cần phải làm được điều gì đó có ích, đóng góp cho non sông, đất nước. “Nợ công danh” bao gồm hai phương diện, thứ nhất là lập công, thứ hai là lập danh, để lại danh tiếng cho đời.

+ Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão: Phạm Ngũ Lão cho rằng thân là đấng nam nhi mà không trả nợ công danh thì nên cảm thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Câu chuyện về Vũ Hầu (Khổng Minh) tức là người tận tâm tận lực với chủ tướng, với non sông đất nước cho đến hơi thở cuối cùng, để lại tiếng vang và là tấm gương sáng cho hậu thế.

Cuối cùng, bạn tổng hợp kết quả sau khi phân tích tác phẩm để đưa ra đánh giá chung, nhận định về tác phẩm Tỏ Lòng của Phạm Ngũ Lão

* Kết bài: Đánh giá chung về tác phẩm và nêu bài học ý nghĩa đối với lịch sử văn học, đối với người đọc ngày nay.

4. Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão

Chính bởi Phạm Ngũ Lão là người chinh chiến trên chiến trường nhiều năm, nên ông luôn đề cao vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng dân tộc, anh dũng, hiên ngang với tư tưởng lớn lao, thế nên ngay trong hai câu thơ đầu tác giả đã thể hiện hình ảnh người anh hùng với khí chất hùng dũng:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quốc tì hổ khí thôn ngưu”

“Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”

Trong câu thơ đầu, từ “Hoành sóc” mà tác giả sử dụng có nghĩa là “múa giáo”, ý muốn nói đến hình ảnh người anh hùng đang hiên ngang cầm mũi giáo trên tay đứng bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, khi sử dụng từ “Hoành sóc” tác giả mới có thể diễn tả hết được khí thế hiên ngang của một con người với tinh thần anh dũng, sắt đá, trần đầy nhiệt huyết, sẵn sàng dâng cao ngọn giáo, xả thân vì nước.

Phạm Ngũ Lão không hề chỉ định rõ chủ ngữ là ai, nhưng khi đọc ai cũng có thể liên tưởng đến ông đang nói về một người anh hùng dân tộc – những con người không phân biệt bất kể thời gian, không gian hoàn cảnh như thế nào, học chỉ cần biết rằng dù là nơi đâu trên mảnh đất này đều là tình yêu của họ, và rồi dù có phải ” tải mấy thu” thì họ vẫn luôn như vậy, vẫn luôn một lòng yêu nước đến bất tận, và từ những con người trân quý như vậy, đạo tạo ra một quân đội hùng mạnh:

“Tam quốc tì hổ khí thôn ngưu”

Câu thơ này có thể được hiểu theo 2 cách, có thể hiểu rằng “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu” và người đọc cũng có thể hiểu theo ý khí thế như là sao Ngưu, át cả sao trời. Có lẽ, không có một câu văn hay bất kể từ ngữ nào có thể diễn tả về sự hùng hậu và chí khí của đội quân nhà Trần, đến mức mà tác giả còn phải mượn hình ảnh sao Ngưu để diễn tả.

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”

“Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

Đối với tác giả Phạm Ngũ Lão, một đấng nam nhi “đầu đội trời, chân đạp đất” phải lập được công danh với đất nước. Tư tưởng cao cả của ông được thể hiện qua câu “Nam nhi vị liễu công danh trái”. Ngay từ ngày còn là một thanh niên, ông không bao giờ cho phép mình được tầm thường, thấp kém, ông luôn tự hướng mình đến những điều mạnh mẽ lớn lao. Bởi vậy, khi nhìn đến hình ảnh Vũ hầu ông lại khiêm tốn và sử dụng từ “luống thẹn”.

Vũ hầu chính là Gia Cát Lượng, một người tài trong thời Tam Quốc, có công lớn trong việc giúp Lưu Bị gầy dựng lại triều đại nhà Hán, sau được phong làm Vũ Lượng hầu (thường được gọi tắt là Vũ hầu). Không phải không có lý gì khi Phạm Ngũ Lão lại nhắc tới vị danh tướng này trong các vần thơ của mình, đó chính vì Vũ hầu chính là động lực, là lý tưởng cao đẹp để ông có những cố gắng và cống hiến hết sức mình cho dân tộc.

Cả cuộc đời của Phạm Ngũ Lão, ông luôn muốn được làm gì đó cho nước, cho dân. Sự bày tỏ sự hổ thẹn của mình càng khiến cho người đọc cảm nhận được nhân cách cao cả của ông, ông có một lý tưởng thực sự của một người anh hùng, xứng đáng trở thành một đấng nam nhi ở thiên hạ. Thế nhưng đối với ông, như thế vẫn là chưa đủ, ông vẫn luôn cảm thấy sự cống hiến của bản thân dành cho đất nước là quá ít. Từ đó ông luôn tự nhủ với bản thân mình phải thật sự cố gắng hơn nữa, cống hiến nhiều hơn nữa. Những lời văn, ý thơ, từ ngữ được ông sử dụng với giọng điệu đầy hào hùng, dứt khoát đã góp phần không nhỏ thể hiện lòng quyết tâm cùng với tâm tư tình cảm của Phạm Ngũ Lão, người đọc hoàn toàn có thể thấy ông là một vị tướng “văn võ song toàn”.

Phân tích bài thơ Tỏ lòng (Thuật hoài) để cảm nhận ý nghĩa sâu sắc trong từng áng văn. Qua tác phẩm thơ của ông, Phạm Ngũ Lão đã để lại cho các thế hệ sau này một bài học quý báu, sâu sắc về lý tưởng sống, ông hướng cho các thế hệ mai sau một suy nghĩ sống là phải không ngừng phấn đấu, không ngừng vươn lên, luôn hướng bản thân đến những điều tốt đẹp, luôn cố gắng phấn đấu hết sức mình để góp phần bảo vệ quê hương, tổ quốc, non sông thân yêu.

Với biện pháp tu từ “Thậm xưng” được tác giả sử dụng chính trong bài thơ đã tăng thêm phần sáng tạo, chính vì vậy những hình tượng thơ trong bài luôn mang một tầm vóc vũ trụ. Những hình ảnh được tác giả mang ra so sánh trong bài thơ cũng hết sức độc đáo, nó không chỉ khơi nguồn cảm hứng trong thơ ca mà còn thể hiện sức mạnh dân tộc to lớn, trở thành một thành tích thơ ca sáng gia trong nền văn học nước nhà thời bấy giờ.

Qua bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão sẽ thấy rằng tác giả đã thể hiện thành công, nổi bật hình ảnh người chiến sĩ anh hùng với những khao khát, ước mơ cháy bỏng có thể lập được chiến công để báo nợ đất nước, báo đáp ơn vua. Khát vọng ấy, thể hiện rực rỡ tấm lòng kiên trung, ái quốc của người anh hùng dân tộc. Bài thơ được ông viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, với giọng điệu oai vệ, hùng tráng, ngôn ngữ, ý thơ lại mạnh mẽ, hàm súc, bài thơ như một khúc tráng ca, nêu cao hình ảnh của những người chiến sĩ đời Trần.

Đặc biệt người đọc có thể lấy hình ảnh oai hùng, lẫm liệt của quân dân nhà Trần để làm tấm gương học tập và noi theo. Bản thân là một đấng nam nhi hãy luôn thẳng thắn, kiên cường, luôn sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ đất nước bất cứ ở nơi đâu và khi nào. Trong cuộc sống hiện tại, một số bạn trẻ còn đang chưa ý thức được trách nhiệm của bản thân, vẫn mải chơi bời, không chú tâm đến học tập và chưa có các hành động để xây dựng một tương lai tốt đẹp, vậy thì ngay bây giờ, hãy đặt lại cho bản thân những suy nghĩ đúng đắn, bắt tay ngay vào việc phấn đấu hoàn thiện bản thân, mà trước hết đó chính là quyết tâm học tập. Đồng thời cần loại bỏ những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội ra khỏi cuộc sống bản thân, để góp phần xây dựng đất nước tươi đẹp, văn minh hơn.

Bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, chỉ vẻn vẹn có bốn câu thơ ngắn gọn, nhưng lại hàm chứa bên trong là nỗi lòng bao la của vị tướng sĩ hào hùng. Bài thơ cũng chính là bài học giáo dục ý thức thế hệ trẻ nước nhà bây giờ và mai sau, tất cả đã tạo nên một giá trị lớn lao cho bài thơ. Hy vọng rằng khi đọc bài phân tích bài thơ Tỏ lòng của chúng tôi có thể giúp các bạn học sinh hiểu được ý nghĩa sâu xa mà tác giả Phạm Ngũ Lão muốn gửi gắm qua bài thơ, từ đó có thể trau dồi thêm cho bản thân thật nhiều các kiến thức nhân văn phục vụ chính các em trong cuộc sống hàng ngày.

Đề bài: Hình tượng người anh hùng trong bài thơ “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão.

Mỗi tác phẩm không chỉ là tiếng lòng của người nghệ sĩ thể hiện dưới ngòi bút mà còn là vũ khí trong mỗi trận đánh, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin để chiến thắng quân thù. Bởi vậy mà trong hai câu thơ của Raxun Gamzatop đã viết:

“Thơ như đôi cánh nâng tôi bay

Thơ là vũ khí trong trận đánh”

Và bài thơ “Thuật hoài” (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão cũng là một trong những khúc tráng ca lẫm liệt, khơi dậy niềm tin và sức mạnh cho những chiến sĩ thời bấy giờ, tinh thần quyết thắng trước mọi thế lực xâm lược. Sức mạnh của người anh hùng dân tộc trong bài thơ tỏa ra trong từng câu chữ.

Tác giả Phạm Ngũ Lão, từng là một tướng sĩ thời Trần, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trong không khí sục sôi của dân tộc thời bấy giờ, với khí thế “Sát Thát”, là một người văn võ toàn tài, ông đã tự họa lên vẻ đẹp của người anh hùng trong thời đại hào khí Đông A qua “Thuật hoài”.

Sức mạnh của người anh hùng thời Trần trước tiên được thể hiện ở hình ảnh “múa giáo non sông cáp kỷ thu”:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu”

(Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ non sông đã mấy thu)

Người anh hùng hiện lên với vẻ đẹp kì vĩ, tư thế hiên ngang sánh tầm với non sông, đất nước cùng với sự trường tồn của thời gian. Cây giáo trong tay là thứ vũ khí để bảo vệ non sông, đất nước. Trong bản phiên âm, vẻ đẹp của người anh hùng được hiện lên ngay qua hình ảnh “Hoành sóc”-cầm ngang ngọn giáo, nhưng trong bản dịch thơ lại chuyển thành “múa giáo” làm mất đi sự uy nghiêm, chưa thể hiện được hết sự kỳ vĩ, vững chắc, quyết tâm.

Hình ảnh người anh hùng cầm vũ khí bảo vệ tổ quốc ấy đã góp phần làm nên sự vững mạnh của cả một đội quân:

“Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”

(Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu)

“Tam quân” khiến ta liên tưởng đến quân đội thời Trần nhưng trên hết đó chính là sức mạnh toàn dân đồng lòng, từ vua quan đến các bậc thường dân đều chung sức mạnh đẩy lùi giặc ngoại xâm. Nghệ thuật so sánh “tì hổ”, “khí thôn ngưu” đã khái quát hóa tinh thần của đội quân “sát thát” vừa có sức mạnh vũ bão như loài hổ “Chúa tể của rừng xanh”, vừa có chí khí ngút trời có thể lấn át được cả bầy trâu.

Hai câu thơ với nghệ thuật so sánh, hình ảnh ước lệ, gợi tả đã khẳng định sức mạnh của dân tộc trước kẻ thù xâm lăng. Khí thể hùng mạnh ấy đã làm tăng thêm niềm tin, khơi dậy sự quyết thắng của dân tộc, quyết bảo vệ lãnh thổ, đánh tan kẻ thù.

Bài thơ không chỉ đẹp ở vẻ đẹp của người anh hùng mà còn đẹp ở ý chí, tâm hồn đẹp của một nhân cách thanh cao qua hai câu thơ cuối cùng:

“Nam nhi vị liễu công danh trái

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”

(Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Câu thơ đề cập đến chí làm trai, tráng chí của người anh hùng thời Trần, cũng là lí tưởng sống của biết bao thế hệ trai tráng khác qua các thời đại:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”

( Nguyễn Công Trứ)

hay trong bài “Cảm hoài” của Đặng Dung cũng nhắc tới mối thù của nước nhà:

“Quốc thù chưa trả già sao vội

Dưới nguyệt mài gươm đã bấy chầy”

Trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão có bày tỏ khát vọng được lập công, cống hiến cho đất nước, lưu danh muôn đời như các bậc tiền nhân lỗi lạc. Bản thân ông đã là người văn võ song toàn, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông của dân tộc, nhưng ông vẫn cảm thấy như vậy chưa đủ, vẫn chưa trả được “nợ công danh” với đời nên còn cảm thấy hổ thẹn khi nghe chuyện “Vũ Hầu”. Vũ Hầu là nhân vật nổi tiếng thời Hán, lập nhiều công lớn, là một trung thần luôn tận tâm vì nước cho đến tận lúc chết đi. Cách nói của Phạm Ngũ Lão thể hiện hoài bão, khát vọng của đấng nam nhi muốn hiến dâng tài trí cho đất nước.

Trong bài thơ “Thu vịnh”, Nguyễn Khuyến cũng thể hiện cải “thẹn” khác rất cao đẹp:

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”

Cái thẹn của Nguyễn Khuyến là cái thẹn của một nhà nho, còn cái thẹn của Phạm Ngũ Lão là cái thẹn của một bậc anh hùng, muốn góp hết sức mình cho đất nước.

Như vậy, qua bài thơ, vẻ đẹp người anh hùng “Sát thát” hiện lên vô cùng rõ nét qua bút pháp nghệ thuật đặc sắc, ngôn ngữ tráng lệ, gợi ra dáng vóc của người anh hùng trong thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi. Bài thơ còn là lời “tỏ lòng”, “tỏ chí” của một đấng nam nhi, một bậc trung quân ái quốc.

Vẻ đẹp của “Thuật Hoài” cùng với những sáng tác khác cùng thời như “Tụng giá hoàn kinh sư” của Trần Quang Khải, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn đã làm sáng ngời hào khí Đông A thời bấy giờ. Đọc những sáng tác với vẻ đẹp sáng rực ấy, bản thân thế hệ trẻ chúng ta trong cuộc sống hiện nay cũng cần nhìn nhận lại lối sống của mình. Trước hết là ý thức rèn luyện, tu dưỡng về mặt thể chất. Sau đó là nuôi dưỡng tâm hồn, với tinh thần yêu nước, sống có lí tưởng, đóng góp cho cuộc đời.

Mỗi người trong cuộc đời không nên ngủ quên trên chiến thắng mà cần phải sống có lí tưởng, hoài bão, cống hiến hơn nữa. Bởi “Những khát vọng tốt đẹp chính là cơn gió đẩy con thuyền cuộc đời mặc dù nó vẫn thường gây nên những cơn giông tố” (Safontaine). Hay “Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường, không có lí tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống. Chúng ta mỗi thế hệ trẻ cần khắc ghi lời dạy của ông cha, đưa đất nước ngày càng tiến bộ đi lên, vượt qua những chông gai, thử thách, bão tố:

“Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi”

(Nguyễn Việt Chiến)