Top 10 # Xuất Xứ Của Bài Thơ Sang Thu Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Tìm Xuất Xứ Bài Thơ ‘Cảnh Khuya’ Của Bác Hồ

Tìm xuất xứ bài thơ ‘Cảnh khuya’ của Bác Hồ

(VH&ĐS) Tháng 12/2013, trở lại các tỉnh Việt Bắc để xác minh một số tài liệu và thu thập thêm tư liệu về Bác Hồ thời kỳ Bác về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam và thời kỳ Bác trở lại chiến khu Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược.

Người ngồi đó với cây chì đỏ – vạch đường đi từng bước, từng giờ (thơ Tố Hữu).

Đến Việt Bắc không thể không đến ATK Định Hoá. Và, đến ATK Định Hoá, không thể không đến đồi Khau Tý – một di tích lịch sử văn hoá được bảo tồn nguyên vẹn. Mỗi lần đến là một lần xúc động.

Trên đường lên Chiến khu Việt Bắc (ATK) Bác Hồ và những đồng chí cùng đi đã đến xã Điểm Mặc, huyện Định Hóa ngày 20/5/1947, đúng như dự định. Tại đây những ngày đầu Bác ở bản Quyên, nhà Chủ tịch xã Ma Đình Trường, sau đó chuyển lên ở lán trên đồi Khau Tý, thôn Nà Tra. Đồi Khau Tý, tiếng địa phương gọi là đồi Cây Thị. Lán được dựng theo đúng với kiểu nhà sàn của đồng bào dân tộc Định Hóa, mái lợp lá cọ, sàn lát ván, vách dựng bằng liếp nứa. Đồng chí Hoàng Hữu Kháng (được Bác Hồ đặt tên trong số 8 đồng chí) kể trong cuốn Những năm tháng bên Bác “Chúng tôi làm riêng cho Bác một cái “lầu”. Tầng trên để Bác ngủ và làm việc ban đêm, tầng dưới làm việc ban ngày, như vậy tránh được thú dữ và không khí ẩm thấp của núi rừng. Gọi là “lầu” nhưng thật ra nó bé lắm. Bác giao hẹn: Chiều cao có thể giơ tay với được, còn chiều ngang thì đưa tay sang phải sang trái vừa chạm đến, để tiện lấy các vật dùng treo trên vách. Bác bảo làm như vậy đỡ tốn công sức, dễ giữ bí mật. Trên sàn chỉ cần một chiếc bàn con để Bác ngồi làm việc, xem sách báo là đủ”.

Định Hóa được chọn làm trung tâm ATK vì đây là vùng địa hình núi non hiểm trở, địch không thể dùng xe cơ giới tấn công, mà ta thì lại sẵn các đường nhỏ xuyên rừng nối liền với các vùng Tây Bắc, vùng trung du, vùng đồng bằng. Năm 1906, nhà chí sĩ ái quốc Phan Bội Châu đã từ Quảng Châu (Trung Quốc) tìm về Định Hóa khảo sát, định xây dựng vùng này thành căn cứ địa chống Pháp.

Thu Đông 1947, thực dân Pháp tập trung binh lực, huy động hơn một vạn quân tinh nhuệ gồm cả Hải, Lục, Không quân mở một đợt tấn công quy mô, chia hai gọng kìm khép chặt Việt Bắc hòng tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến. Trong vòng vây trùng điệp bốn bề của địch, Bác và Trung ương chỉ đạo sáng suốt các cơ quan và đơn vị bộ đội di chuyển và thực hiện phương châm vừa đánh vừa tránh địch ở các địa bàn Thái Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang.

Một tối cuối thu đầu đông, Bác cho mời đồng chí Ma Đình Kháng – Chủ tịch huyện Định Hóa đến lán Bác ở. Hai Bác cháu chuyện trò trong lán dưới tán lá cổ thụ giữa những khóm hoa rừng, xa xa tiếng suối đổ đều đều từ phía chân đồi vọng lại. Bác hỏi đồng chí Kháng về việc vạch kế hoạch tác chiến của huyện khi địch đánh tới đây thì thế nào và Bác sẽ chuyển đi đâu. Đồng chí Kháng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ, chi tiết về kế hoạch đã được chuẩn bị chu đáo. Tận khuya, dưới ánh trăng vàng, Bác tiễn đồng chí Kháng ra về, trở lại giữa rừng khuya trăng sáng, vẻ trầm ngâm, hứng thơ đến với Bác.

Luật sư Phan Anh cũng cho biết: Trong những ngày cực kỳ gay go, khó khăn của những tháng, năm đầu ở Việt Bắc, Bác đã phân tích và chỉ rõ những thuận lợi và những khó khăn của ta và địch. Bác phán đoán những hoạt động của các cánh quân của Pháp, Bác vẽ trên đất về đường tiến, đường lui của địch và của ta và giảng giải cặn kẽ: Chúng bao vây ta với thế gọng kìm ta phải luồn ra ngoài gọng kìm ấy để không mắc vào tròng của chúng. Khi địch rút lui ta lại về chỗ cũ. Luật sư cũng kể lại: chính trong những ngày gay go ấy, sau hôm gặp Bác ở Tràng Xá, ông nhận được thư của Bác, kèm theo một đoạn thơ:

Đêm khuya nhân lúc quan hoài

Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần

Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, gió lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà

Nước nhà đang gặp lúc gay go

Trăm việc ngàn công đều phải lo

Giúp đỡ anh em nên gắng sức

Sức nhiều thắng lợi lại càng to.

Từ sự kiện Bác trò chuyện với đồng chí Ma Đình Kháng và lời kể của luật sư Phan Anh cho ta biết được hoàn cảnh để có 10 câu thơ trên, giúp ta hiểu thêm Bác và thơ Bác. Mặc dù trong những giờ phút đương gặp lúc gay go với lo nỗi nước nhà, Bác vẫn có lúc quan hoài, vẫn có thơ, vẫn có nụ cười dí dỏm Lên câu thơ thẩn chờ ai họa vần.

Luật sư Phan Anh rất cảm động và xúc động khi đọc những câu thơ của Bác nên đã ứng tác họa vần:

Họa vần xin gửi cho ai

Đường xa sẻ tấm quan hoài nước non

Quanh quanh dòng suối cảnh đường xa

Trời có trăng và núi có hoa

Trăng sáng bao la trời đất nước

Hoa thơm phảng phất vị hương nhà

Nước nhà đang gặp bước gay go

Lái vững chèo dai ta chẳng lo

Vượt sóng, dựng buồm, ta lựa gió

Thuận chiều, ta mở cánh buồm to.

Sau này, năm 1967 Nxb Văn học làm sách Thơ – Hồ Chủ tịch, những người biên tập chỉ đưa bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya:

Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa.

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.

Ở câu thứ hai của bài thơ bốn câu này chữ gió được thay bằng chữ bóng.

Quả là bốn câu thơ với đầu đề Cảnh khuya diễn đạt trọn vẹn một tứ thơ hay, độc đáo, bất ngờ. Có thể nói được rằng, bốn câu thơ trên hoàn toàn đủ các yếu tố, thành phần của một bài thơ tứ tuyệt hoàn chỉnh, hiểu và cảm nó trọn vẹn như những bài thơ tứ tuyệt khác vậy. Bài thơ Cảnh khuya giúp ta hiểu rõ vì sao đêm khuya Bác chưa ngủ Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, đồng thời hé mở một tâm hồn lớn, một bản lĩnh thi nhân tràn đầy sức sống và nhạy cảm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Dù bề bộn đến đâu, trong lúc lo chăm công nghìn việc cho kháng chiến, cho dân, cho nước, Người vẫn dành một khoảng tâm hồn mình cho thiên nhiên thơ mộng cho trăng cho hoa – tâm hồn thi nhân của Người lúc nào cũng rộng mở vẫn không hề quên những việc nước, việc dân. Những cái mâu thuẫn tưởng như đối ngược lại thống nhất trong con người Bác, thật là kỳ diệu. Bài thơ đã đi vào các thế hệ bạn đọc và ở lại trong lòng bạn đọc cùng với thời gian năm tháng.

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà, Tấm quan hoài nước non của Bác là từ lán Bác ở và làm việc trên đồi Khau Tý. Đồi này, lán này vẫn được lưu giữ. Ai đã từng đặt chân đến lán Khau Tý không thể không ngước nhìn cây đa cổ thụ cao to xum xuê cành lá giữa những khóm hoa rừng không thể không xúc động nhất là khi nhìn cây dâm bụt Bác trồng từ năm 1947 vẫn xanh tươi, tràn trề sức sống. Trong tĩnh lặng, xa xa dưới chân đồi Khau Tý, dòng suối Nà Tra róc rách, róc rách chảy như tiếng hát xa. Nhà văn Hoàng Quảng Uyên khi đến thăm nơi này, đã rất xúc động, cảm xúc dâng trào, đột xuất có một mong muốn, một đề xuất: “Sáu mươi năm rồi, quá khứ hiện tại đan dệt. Trong mối liên tưởng đa chiều chợt dâng ước muốn nho nhỏ – giá chi dựng ở nơi đây một tấm bia đề bài thơ Cảnh khuya của Bác Hồ làm gần lại khoảng cách giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và mơ, để du khách đến đây sẽ không chỉ được thăm nơi đầu tiên Bác Hồ ở khi trở lại chiến khu Việt Bắc mà còn thăm nơi đầu tiên của nhà thơ Hồ Chí Minh, nơi nhà thơ sáng tác bài Cảnh khuya trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, thả hồn ngẫm ngợi trong sự hòa quyện giữa lịch sử và thơ. Sáng trong và linh thiêng”(1).

Lê Xuân Đức

(1) Báo Văn nghệ số 03 ngày 20-1-2007.

Xuất Xứ Của Bài Thơ “Gửi Lời Chào Lớp Một”

Từ thập kỷ 80, bài thơ “Gửi lời chào lớp Một” đã được đưa vào sách giáo khoa và vẫn hiện hành với sách cải cách. Đã có những nhầm lẫn về xuất xứ bài thơ và cuối cùng cũng tìm ra xuất xứ tin cậy nhất. Xin tổng hợp các thông tin để chia sẻ với các bạn.

Bài thơ “Gửi lời chào lớp Một”

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Cố sẽ xa chúng em…

Cô sẽ luôn ở bên.

Lớp Một ơi! Lớp Một!

Gửi lời chào tiến bước!

Lời bình của nhà văn Phạm Khải

Nghi ngờ sách giáo khoa ghi sai tên tác giả

Ở SGK Tiếng Việt lớp 1 (tập 2) dưới bài thơ ghi tên tác giả là Hữu Tưởng. Người đưa nghi vấn đầu tiên về tác giả là nickname Tran Trung.

Trên trang cá nhân của mình, Tran Trung chia sẻ: “Internet thật là tuyệt! Nhờ nó mà tình cờ mình biết được bài thơ quen thuộc một thời Gửi lời chào lớp Một là lời bài hát trong bộ phim Liên Xô (cũ) Maruxia đi học, sản xuất năm 1948″.

Những độc giả khác truy tìm trên mạng thì thấy quả kịch bản của phim Maruxia đi học này có lời bài hát Nga tựa như bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong SGK. Dòng trạng thái này của Tran Trung được nhiều bạn bè, cư dân mạng chia sẻ với nhiều câu hỏi.

Nickname Uyên Thảo Trần Lê cung cấp thêm thông tin: “Bài thơ này tôi nhớ học từ năm lớp 1 cách đây 50 năm, khi ấy người ta ghi là phỏng thơ”. Nickname Mai Anh cũng viết: “Bài này hồi mình học năm 1970 đã biết là của Nga mà”.

Qua tìm hiểu, được biết sau năm 1975, SGK lớp 1 có hai lần được sửa chữa. Lần chỉnh sửa thứ nhất là năm 1979, xuất bản năm 1981. Lần chỉnh lý thứ hai là năm 1989, xuất bản năm 1994. Sách Tiếng Việt lớp 1 được lưu hành hiện nay dựa trên bản chỉnh lý năm 1994.

Ý kiến các nhà làm sách giáo khoa

PGS.TS Đặng Thị Lanh, chủ biên của sách Tiếng Việt lớp 1 hiện hành, cho biết bản chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1994 dựa trên sách Tập đọc lớp 1 xuất bản năm 1981.

Lúc đó, sách vẫn đề tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một là “theo Hữu Tưởng”. Còn với những bản gốc trước năm 1981, bà Lanh cho hay bà cũng không biết nên chưa có cơ hội đối chiếu.

“Tôi cũng không biết tác giả Hữu Tưởng là ai. Khi làm sách thì chúng tôi không thể gặp từng tác giả một. Chúng tôi chỉ trích lại theo nguồn (năm 1981) mà thôi” – bà Lanh nói.

Thạc sĩ Trần Mạnh Hưởng – người cùng tác giả Nguyễn Có được giao chỉnh lý sách Tiếng Việt lớp 1 năm 1989 – cũng xác nhận bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong quyển Tiếng Việt lớp 1 hiện hành được trích lại từ sách Tập đọc lớp 1 năm 1981, ghi tác giả bài thơ là “theo Hữu Tưởng”, còn bản hiện hành để tên tác giả là Hữu Tưởng.

Theo ông Đào Duy Mẫn – nguyên phó vụ trưởng Vụ Giáo dục phổ thông, một đồng nghiệp cũ của ông Hữu Tưởng – thì ông Hữu Tưởng tên thật là Nguyễn Hữu Tưởng, nguyên viện phó Viện Khoa học – giáo dục trước đây, đã mất vào những năm 1980. Theo đánh giá của ông Mẫn thì tác giả Hữu Tưởng là một đồng nghiệp rất uy tín.

Như vậy, xung quanh tác giả bài thơ Gửi lời chào lớp Một đã có nhiều thông tin lẫn lộn – học sinh thuộc những năm 1970 cho biết bài thơ được phỏng theo một ca khúc Nga, học sinh từ năm 1981 đến nay hiểu là thơ của Hữu Tưởng.

Để giải quyết sự không rõ ràng này, chúng tôi Nguyễn Minh Thuyết cho rằng: “Người làm sách cần phải tra cứu lại những bản sách trước sách Tập đọc năm 1981, xem lại bài thơ có giống như bài hát Nga đã nói không. Nếu có, cần phải chú thích lại cho rõ”.

Xuất xứ bài thơ theo tài liệu lâu nhất

Sau khi đọc bài viết “Gửi lời chào lớp Một: Thơ của ai?” (Tuổi Trẻ ngày 7/7/2015), ông Lê Khánh Hoài (bút danh Châu La Việt) đã nhận ngay ra đây là bản dịch của cha ông – nhà báo Lê Khánh Căn.

Tại Thư viện Quốc gia, ông Lê Khánh Hoài đã tìm thấy bản dịch truyện Ma-rút-xi-a đi học gồm hai tập do NXB Kim Đồng in năm 1959 với số lưu chiểu lần lượt là 6.379 và 6.511.

Ngay trang đầu tập truyện dịch (in lần đầu năm 1958), lời nhà xuất bản có ghi: “Xin giới thiệu với các em tập truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác. Đây là một truyện rất quen biết của các em nhỏ Liên Xô, đã được quay thành phim lấy tên là Em nữ sinh lớp một… Lần tái bản này chúng tôi có lược bớt đi một số đoạn. Mong rằng sau này sẽ có dịp giới thiệu với các em toàn bộ cuốn truyện”.

Đáng chú ý là ở cuối tập hai của truyện có in toàn bộ bài thơ được dẫn dắt như sau:

“Toàn lớp hai “A” kéo ra đầy sân khấu. Các em hát: Lớp một ơi, lớp một!/Đón em vào năm trước;/Năm nay lên lớp hai,/Gửi lời chào tiến bước!/ Phấn, bảng, sổ gọi tên,/Theo chúng em cùng lên/Chúng em dần lớn mãi,/Bàn ghế cùng lớn thêm,/Chúng em chơi thân mật/Yêu thương cả mọi người,/Đứa bạn em yêu nhất/Cũng cùng lên lớp hai./Còn cô giáo thân mến/Cô sẽ xa chúng em?/Không, cô yêu chúng em/ Cô cũng lên lớp chứ./Thế là cùng vui vẻ,/Chúng em tiến bước đều,/Cùng cả trường cả lớp,/Cùng Tổ quốc thân yêu!…

Khánh Như trích dịch (theo bản Pháp văn Maroussia va à l’ecole của Nhà xuất bản Ngoại Văn Liên Xô)/ In 5.065c tại Nhà máy in Tiến Bộ – Hà Nội. Gửi lưu chiểu tháng 3-1959.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Khánh Hoài nói: “Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, bố tôi làm bí thư Đoàn Trường Khải Định ở Huế, sau đó cùng với bác Trần Hoàn đi theo kháng chiến. Năm 1956, bác Tố Hữu cử ông sang làm Sở Báo chí trung ương. Năm 1957 ông về làm báo Nhân Dân với bút danh Hồng Chuyên. Với vốn tiếng Pháp của mình, ông đã dịch tập truyện Ma- rút- xi-a đi học do NXB Kim Đồng ấn hành.”

“Theo tôi nhớ, bản in lần đầu năm 1958 có ghi Lê Khánh Căn dịch. Đáng tiếc bản này tôi không tìm thấy nữa. Đến lần tái bản 1959, ông lấy tên con gái út mà ông yêu quý là Khánh Như để đặt bút danh. Đây là bản Thư viện Quốc gia còn lưu. Như vậy từ năm 1958-1959 đã có Ma-rút-xi-a đi học này rồi. Đến năm 1971, tập truyện tiếp tục được NXB Kim Đồng tái bản và dồn lại thành một tập”.

Về câu chuyện dư luận đang quan tâm, ông Khánh Hoài giải thích: “Theo như tôi tìm hiểu qua các bản in bài thơ Gửi lời chào lớp Một trong sách giáo khoa lớp 1, lần đầu tiên phần tác giả được ghi là Hữu Tưởng (theo quyển Ma- rút- xi-a đi học), lần in thứ hai chỉ đề là Theo Hữu Tưởng, lần ba chỉ còn Hữu Tưởng – lúc đó ông Hữu Tưởng đã mất rồi. Không hiểu sao lại ghi như vậy? Trong khi lẽ ra bài thơ này chính xác nhất phải viết là: “Dựa theo truyện Ma-rút-xi-a đi học của nhà văn Liên Xô E. Su-oác (Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một” – PV), bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959″.

Bản gốc bài hát

LỜI CHÀO LỚP MỘT

Đây là bài hát rút từ đoạn kết kịch bản phim “Nữ sinh lớp một” (Первоклассница – Режиссёр Илья Фрэз, Союздетфильм, 1948) của nhà văn, nhà soạn kịch Nga Evghenhi Lvovich Shvarts (Евгений Львович Швaрц, 1896 – 1958), tác giả của những truyện cổ tích tân biên nổi tiếng như “Phép lạ đời thường”, “Cái bóng”, “Lọ lem”, “Giết rồng”… Năm 1949, Shvarts công bố kịch bản “Nữ sinh lớp một” như một truyện vừa.

BigSchool: Như vậy, dưới bài thơ ở sách giáo khoa nên ghi: Dựa theo truyện “Ma-rút-xi-a đi học” của nhà văn Liên Xô Evgeny Shvarts – cũng là tác giả kịch bản bộ phim “Nữ sinh lớp một”. Vì ông Hữu Tưởng đã mất nên không hiểu ông đọc bản dịch của Khánh Như, NXB Kim Đồng – 1959 hay ông đọc thẳng bản tiếng Nga hay tiếng Pháp? Dù là cải biên hay phóng tác theo lời bài hát đã có, tác giả Hữu Tưởng vẫn đáng để chúng ta ghi nhận công của ông. Với những tác giả giáo khoa thì đây cũng là điều cần chú ý khi đưa các tác phẩm vào sách của mình.

Các bạn có thể xem và nghe bài hát này ở phần kết của video:

Nguồn: Báo Tuổi trẻ và FB của TS. Đỗ Hải Phong

Phân Tích Bài Thơ Sang Thu

Đề : Phân tích bài thơ Sang thu – Cảm nhận của em về bài thơ sang thu

Mùa thu là mùa chắp cánh cho tâm hồn thi nhân. Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác giả viết về mùa thu và cũng có nhiều bài thơ hay. ” Sang thu” của Hữu Thỉnh vẫn có một vị trí đặc biệt vì đây là khúc giao mùa sang thu. Một mùa thu đang vận động hiện lên qua cảm nhận hết sức tinh tế của tác giả.

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi.

Bài thơ sang thu được sáng tác năm bao nhiêu

Hoàn cảnh sáng tác bài thơ sang thu

Bài thơ được sáng tác vào gần cuối năm 1977. Bài thơ thể hiện những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về sự biến đổi của đất trời từ cuối hạ sang đầu thu. Qua đó bộc lộ tình yêu thiên nhiên tha thiết, tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc của nhà thơ. Khổ thơ thứ nhất chính là khúc giao mùa và cảm nhận tinh tế của thi nhân. Mở đầu bài thơ, người đọc đã có thể nhận ra ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bất chợt trong cảm nhận. Ở đây đó chính là bất chợt nhận ra đất trời đã chớm sang thu. Cái hay và tinh tế nữa đó là, tác giả nhận thấy mùa thu không phải vì bầu trời cao xanh hơn. Hay hoa cúc nở vàng như trong các bài thơ ta thường thấy. Mà ở đây là vì “hương ổi phả vào trong gió se”.

Sự tinh tế của tác giả chính là ở việc không tả mà chỉ gợi. Hương ổi thơm lừng trong gió se gợi cho người đọc màu vàng ươm của những trái ổi nơi vườn quê trong một buổi chiều cuối hạ, đầu thu. Và vì có gió thu “se” lạnh nên hương ổi mới thêm nồng nàn, phả vào đất trời và hồn người để cho tác giả “bỗng” phát hiện ra thu đã về.Không chỉ có “hương ổi” trong “gió se”, nhà thơ còn nhận thấy:

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Với cách nhân hóa, từ láy “chùng chình” gợi tả sự chậm rãi, nhẹ nhàng của màn sương giống như một nàng Thu yêu kiều đang bước tới gợi sự vận động chậm chạp như làm nũng như ngại ngùng của sương đầu thu. Sương thu giăng mắc chuyển động nhẹ nhàng nơi đường thôn ngõ xóm.Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (hương ổi – vị giác, gió se – xúc giác, sương chùng chình – thị giác) nhưng tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên mới mơ hồ: “Hình như thu đã về”. “Hình như” là chưa chắc chắn, không chắn chắn nhưng kì thực là tác giả đã tự khẳng định rằng: mùa thu về thật rồi.

Khổ thơ thứ hai thể hiện cảm nhận của nhà thơ trước những thay đổi của thiên nhiên , đất trời lúc sang chúng tôi về, không gian bức tranh màu thu được quan sát ở chiều cao, độ rộng với những cảnh vật cụ thể :

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.”

Tác giả dùng biện pháp tu từ nhân hóa “dềnh dàng” miêu tả rất thực và sống động đặc điểm dòng chảy hiền hòa của dòng sông mùa thu. Dòng sông trôi mùa thu gợi cảm giác lững lờ, thanh thản. Đây cũng là nét đặc trưng của dòng hải lưu khi đất trời vào thu. Mùa thu được cảm nhận trong mọi thời điểm.Trong thơ hình ảnh cánh chim trên bầu trời thường gợi nhiều, gợi về dòng thời gian đang vận động. Cánh chim bay vội vã trước khi hoàng hôn về hay cánh chim đang vội vã bay đi tránh cái se lạnh của gió thu.

Cánh chim trời ” vội vã” trong sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn nghệ sĩ luôn tràn đầy cảm xúc trước vạn vật. Tất cả như đang vận động, gắn kết, hài hòa trong đất trời lúc sang thu.Mây trời vốn thay đổi nhanh chóng. Một cơn gió nhẹ đôi khi cũng khiến mây thay hình đổi sắc. Đám mây trong câu thơ là chiếc cầu mềm mại nối từ hạ sang thu. Khoảnh khắc giao mùa được ghi lại vừa mới mẻ, vừa tinh tế. Động từ ” vắt” gợi liên tưởng đám mây như tấm lụa , tấm khăn voan của người thiếu nữ lửng lơ trên bầu trời.

Khổ thơ cuối từ cảm nhận về mùa thu, nhà thơ hướng vào tâm tưởng

” Vẫn còn bao nhiêu nắng.

Đã vơi dần cơn mưa.

Sấm cũng bớt bất ngờ.

Trên hàng cây đứng tuổi”.

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng nhạt dần. Những ngày giao mùa ít đi những cơn mưa ào ạt, bất ngờ.Tác giả đã chọn dùng những từ không lặp lại để diễn tả một ý nghĩa : sự giảm đi về mức độ. Không gay gắt đổ lửa như nắng hạ, nắng thu dìu dịu trong lành.Không sầm sập trút nước như mưa hè, mưa thu lưa thưa. Sấm cũng không rền vang , bất ngờ mà ít đi, nhỏ hơn. Những tiếng sấm bất ngờ gắn với những suy ngẫm về cuộc đời, lẽ sống.

Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa “hàng cây đứng tuổi” vừa tả thực những cây cổ thụ lâu năm. Vừa gợi tả thế giới sang thu của hồn người, đời người. Vẻ điềm tĩnh của cây trước sấm sét phải chăng là ẩn dụ chỉ sự từng trải, chín chắn của con người sau những bão giông. Khi con người đã từng trải thì càng vững vàng hơn trước những tác động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời.

Bài thơ sang thu của tác giả nào ?

Từ cuối hạ sang thu đất trời có nhiều chuyển biến.Sự chuyển biến này được tác giả gợi lên bằng những cảm nhận tinh tế. Qua những hình ảnh tư ngữ giản dị , giàu sức biểu cảm, gần gũi với cuộc sống.Thơ 5 chữ nhẹ nhàng mà lắng đọng, thấm sâu.Sang thu đã miêu tả cảnh thu thiên nhiên đẹp, tình thu thi nhân thiết tha trìu mến.

Hữu Thỉnh đã dâng tặng cho đời khúc sang thu nhẹ nhàng mà sâu lắng làm phong phú tâm hồn.Bài thơ bé nhỏ xinh xắn nhưng chứa nhiều điều thú vị, bởi vì mỗi chữ, mỗi dòng là một phát hiện mới mẻ. Sang thu đã đánh thức trong lòng người đọc tình yêu thiên nhiên, đất trời, quê hương.

Phân Tích Bài Thơ “Sang Thu”

Phân tích bài thơ “Sang thu” – Ngữ Văn 9

Phân tích bài thơ Sang thu Đề bài: Phân tích khổ thở đầu bài Sang thu của Hữu Thỉnh. 1. Yêu cầu

– Viết bài văn nghị luận về một khổ thơ trong bài thơ.

– Vấn đề cần nghị luận (phân tích, cảm nhận) là khổ đầu của bài thơ Sang thu của tác giả Hữu Thỉnh.

– Cần phân tích cảm nhận về cái hay, cái đẹp của nội dung và hình thức khổ thơ.

2. Gợi ý

– Cần đọc kĩ cả bài thơ, nhất là khổ đầu.

– Cần đọc các bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình về bài thơ, kể cả một số bài viết của các bạn trong tập Những bài làm văn chọn lọc lớp 9 (Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1998).

– Những cảm nhận về mùa thu thể hiện qua các giác quan nào? Sự tinh tế và mới lạ trong cách cảm nhận và thể hiện là gì?

– Cần kết hợp nghị luận với biểu cảm.

3. Lâp dàn ý (dàn ý sơ lược)

a.Mở bài: Thơ về mùa thu và bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh.

b. Thân bài

– Cảm nhận mùa thu của tác giả.

– Phân tích vai trò các giác quan (khứu giác, xúc giác, thị giác).

– Vẻ đẹp của các từ ngữ hương ổi, phả, gió se, chùng chình, hình như.

– Suy nghĩ về mùa thu thiên nhiên thời khắc giao mùa.

c. Kết bài: Nhấn mạnh vẻ đẹp của khổ thơ trong vẻ đẹp của toàn bài: mùa thu của đất trời và mùa thu trong hồn người.

Bài 1

Xuân, hạ, thu, đông – bốn mùa trôi qua đã trở thành đề tài quen thuộc cho biết bao tác phẩm văn thơ và cũng là nguồn thi cảm vô tận của nhiều thi nhân. Đặc biệt là mùa thu với những nét buồn man mác, với nắng vàng và hương thơm dịu dàng cùng gió, cùng hoa… Chúng ta đã gặp thu trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, trong Thu của Chế Lan Viên hay Chiều thu của Thái Can,… Nhưng Hữu Thỉnh lại đem đến cho bạn đọc một nét riêng biệt của mùa thu, đó là thời khắc giao hoà của cuối hạ với đầu thu. Bài thơ Sang thu của ông đã gợi lên một cảm xúc bồi hồi, bâng khuâng của những rung động ngọt ngào và tinh tế.

Đọc thơ mà ta thấy quen đến kì lạ. Những hình ảnh không hề cao sang mà vẫn gần gũi. Những cảm xúc hình như ta đã có, đã bắt gặp ở đầu rồi. Y như khi ta đột ngột nhận ra cái gì mà rất lâu mình không nhớ, không để ý tới. Có phải đó là khi thiên nhiên chuyển mình, là khi thời gian nhẹ nhàng bước những bước khẽ khàng, kín đáo:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về.

Tác giả dùng từ “bỗng” thật khéo, câu thơ không kéo dài mà trở nên đầy thú vị, bất ngờ. Nó như cái giật mình nhẹ, lôi ta ra khỏi những công việc thường ngày. Đọc câu thơ khiến ta nhớ đến một đoạn văn mà nhà văn nào đó đã viết: “Ngày và đêm theo nhau qua đi trên trái đất này” giữa bao mối lo và công việc, giữa bao nỗi buồn và niềm vui “Chúng ta quên đi rất nhiều điều mà lẽ ra không được quên”. Thế thì chính cái giật mình ấy đã kéo ta ra khỏi sự quên lãng bấy lâu nay, để lại hoà mình với thiên nhiên, thấy được từng vẻ đẹp li ti nhất của nó. Mà “chợt” cũng như một phát hiện thật mới mẻ, một tiếng kêu vang thích thú, một khoảnh khắc nhanh chóng qua đi mà để lại biết bao cảm xúc. Kìa! Mùa hạ đã sắp qua, hình như mùa thu đã đến! – Trái tim nhà thơ sau khoảnh khắc ấy đã tự nhủ thầm như vậy.

Tác giả đã cảm thấy gì đầu tiên? Giống như tiếng tu hú đã đánh thức nỗi khao khát tự do trong bài thơ của Tố Hữu, thì chính hương thơm của ổi chín đã tác động mạnh mẽ tới tâm hồn nhà thơ Hữu Thỉnh:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se.

Đọc câu thơ mà ta biết mùa hè chưa qua hẳn. Bởi hình ảnh những chùm ổi chín vàng ruộm, trĩu cành dưới cái nắng gay gắt đã trở thành hình ảnh của mùa hạ. Nhưng qua câu thơ, ta biết mùa thu đã về. Mùa thu đặt những bước chân nhẹ nhàng, buông mình về theo những cơn gió se – thứ gió khô và lạnh đặc trưng của khí thu. Và hương ổi cũng hết sức đặc biệt, nó không “thoảng”, không “bay”, không nhẹ dịu như ổi khi vừa chín mà đậm đặc, mà ngào ngạt thơm nồng. Đó là hương thơm của ổi cuối mùa. Hương thơm ngọt ngào ấy mạnh đến mức có thể “phả” vào từng cơn gió, đánh thức khứu giác của cả những người vốn vô cảm với thiên nhiên. Khi Hữu Thỉnh cảm được cái lạ lùng ấy của hương ổi bằng khứu giác và cảm nhận được bằng da thịt (xúc giác) cơn gió thu đủ làm ông vừa bối rối lại vừa vui mừng. Có lẽ, ông còn nghi ngờ, sợ rằng mình nói ra thì cái cảm giác ấy sẽ bay mất, sẽ tan biến mất.

Câu thơ thứ ba như khẳng định mùa thu về rõ ràng hơn: Sương chùng chình qua ngõ.

Lần này thu được nhìn bằng mắt qua cái vẻ dùng dằng nửa đi nửa ở của sương thu. Từ “chùng chình” thật đặc biệt. Nó là từ láy của thanh bằng, tạo nên một cảm giác êm ả, dịu dàng. Nhà thơ đã nhân hoá màn sương để nó trở nên có hồn, sống động bởi từ láy chỉ hành động lưỡng lự, lưu luyến trong động thái của con người. Sương như muốn ở lại để ngắm nhìn khoảnh khắc giao mùa. Điểm thú vị là với từ “chùng chình” sương thu trở nên gợi tả vô cùng. Đọc thơ ta lại nhớ đến đoạn văn Pau-tốp-xki viết trong Một mình với mùa thu về “mơ-ga”. Đó là một làn khói lam nhàn nhạt bao phủ trên mặt sông Ô-ka. Nó “khi thì sẫm màu tụ lại, khi thì bàng bạc tan ra” ; ” Khi ấy qua màn sương nhẹ nhàng mỏng như tấm kính mờ mờ, ẩn hiện bóng dáng hàng liễu rủ bên sông, những bãi chăn thả cằn khô và những cánh đồng mơn mởn màu xanh”. Chúng ta như cảm được sương ở giữa hai mùa tụ lại thành từng đám mây trong suốt màu bạc “chùng chình” chắn cả con ngõ nhỏ chứ không tan loãng vào không gian.

Mỗi bước đến của mùa thu thật bất ngờ. Thu đến vội vã mà thật nhẹ nhàng, không ồn ào. Chỉ cần quan sát và cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả sự tinh tế của các giác quan là ai trong chúng ta cũng có thể thấy được. Đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, đó cũng là những phát hiện liên tiếp, nối nhau mà mỗi phát hiện lại đem đến một cảm xúc riêng tư, tinh mới. Sự vội vã ấy được thể hiện qua cách ngắt nhịp tài tình:

Bỗng / nhận ra hương ổi Phả / vào trong gió se. Sương / chùng chình qua ngõ

Cái nhịp điệu vội vàng ấy cứ như nhịp điệu của mùa hạ, khi mọi thứ đắm chìm trong cái nắng rực rỡ, khi cây trái vội vàng ra hoa, ra quả. Và đó cũng là nhịp điệu của những cái giật mình liên tiếp. Cái cảm giác bất ngờ còn chưa đi hẳn. Nhưng đến câu cuối cùng, nhịp ngắt 2/3 lại trở nên dàn trải, nhẹ nhàng như khoảnh khắc mùa thu, như một niềm vui mơ hồ mà mãnh liệt, hoặc như một nụ cười kín đáo: Hình như thu đã về.

Không khẳng định, mà chỉ “hình như”. Bởi thu đến nhẹ quá, mơ hồ quá. Tác giả thấy thu, nhưng vẫn còn bâng khuâng lo ngại. Trong lòng tác giả như có một băn khoăn, da diết như một câu hỏi: “Thu đã về rồi đấy” hay là “Không, thu chưa về đâu!”. Trong tâm tư tác giả vẫn còn cái nắng chói của mùa hè nhưng lại có cảm giác phảng phất, như một cánh bướm nhẹ chạm vào tà áo mỏng manh của tiết thu? Chính niềm vui bối rối, bâng khuâng, lúc khẳng đình, lúc nghi ngờ đã làm nên cái duyên dáng của Sang thu.

Dù chỉ là một khổ thơ đầu, nhưng cái rung cảm tinh tế trong tâm hồn Hữu Thỉnh với thiên nhiên khiến độc giả càng thêm yêu mùa thu, càng thêm yêu bài thơ. Nó làm ta chợt nhớ tới câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.

Nhờ tâm hồn nhạy cảm và tình yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ đã cho ta thấy được những bước đi nhẹ nhàng, duyên dáng của thời gian. Sự chuyển tiếp lúc rất mềm mại, uyển chuyển lúc lại như tinh nghịch, vui đùa. Và một bài thơ đầy cảm xúc, đầy rung cảm ra đời từ chính cảm nhận ấy…

(Lưu Hoài An, lớp 9A9, Trường THCS Ngô Sĩ Liên,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Bài viết chặt chẽ, giàu cảm xúc. cảm nhận thơ khá tinh tế, cộng với ngôn ngữ diễn đạt giàu chất thơ đã dẫn người đọc vào những vẻ đẹp của cảm xúc, ngôn ngữ, hình ảnh thơ độc đáo của khổ thơ đầu bài Sang thu. Bạn đã cố gắng cắt nghĩa nhịp của đoạn thơ này:

Bỗng / nhận ra hương ổi Phả / vào trong gió se. Sương / chùng chình qua ngõ

Cái nhịp điệu vội uàng ấy cứ như nhịp điệu của mùa hạ, khi mọi thứ đắm chìm trong cái nắng rực rở, khi cây trái vội vàng ra hoa, ra quả. Và đó cũng là nhịp điệu của những cái giật mình liên tiếp. Cái cảm giác bất ngờ còn chưa đi hẳn. Nhưng đến câu cuối cùng, nhịp ngắt 2/3 lại trở lên dàn trải, nhẹ nhàng như khoảnh khắc mùa thu, như một niềm vui mơ hồ mà mãnh liệt, hoặc như một nụ cười kín đáo: Hình như thu đã về.

Không khẳng định, mà chỉ “hình như”. Bởi thu đến nhẹ quá, mơ hồ quá.

Việc liên hệ với thơ Trần Đăng Khoa, Tố Hữu, văn Pau-tốp-xki giàu chất thơ đúng chỗ đã tăng thêm giá trị của bài viết. Tuy nhiên, sự liên hệ với thơ Trần Đăng Khoa lại chưa thật thích hợp. Tuy vậy đây vẫn là một bài viết tốt, giàu chất thơ.

Bài 2

Thiên nhiên đi vào thi ca đã từ lâu và trong bốn mùa, có lẽ thu được chú ý hơn cả. Phải chăng bởi nó gợi ra nỗi buồn nhẹ nhàng, kín đáo với nhiều dư âm khó gọi thành tên? Hình như cảnh trong thơ càng trầm buồn lại càng thi vị, tha thiết. Nói đến thu ta vẫn nhắc đến Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Nguyễn Bính – những ngòi bút xuất sắc của thi ca Việt Nam. Ớ đó, thu hiện lên bằng những vẻ đẹp muôn hình, muôn sắc, muôn thanh âm của thiên nhiên. Nhưng với người yêu thơ và yêu mùa thu hẳn sẽ ngạc nhiên, bất ngờ lắm khi thu tới với họ qua Sang thu của Hữu Thỉnh. Mà khổ thơ thứ nhất chính là khúc nhạc dạo đầu cho bản hoà ca tràn đầy cảm xúc này.

Chỉ với bốn câu thơ ngắn thôi nhưng như thế cũng là quá đủ để phác lên một bức tranh vô hình của thời gian: khúc giao mùa hạ – thu. Bức tranh ấy được vẽ lên bởi giác quan đa dạng của người hoạ sĩ, vẽ thu bằng ngôn từ. Bắt đầu bằng khứu giác và xúc giác với mùi hương ổi “phả vào trong gió se”. Câu thơ có cái ấm nồng nàn của hoa trái mùa hạ, lại có cái lạnh se se của mùa thu. Sự giao hoà kì diệu ấy khơi gợi kí ức tuổi thơ và thức dậy kỉ niệm xa lắc…

Dòng xúc cảm tự nhiên đến, đầy bất ngờ, vì thế ngay ở đầu câu, tác giả đã đặt vào đó từ “bỗng”. Đột ngột, mùi hương “phả” mạnh mẽ, nên lại thấy vị thơm mát, ngọt ngào? Hai câu thơ như thoáng chút bâng khuâng, xao xuyến. Mạch cảm xúc tiếp tục tràn xuống câu sau với sự đón nhận của thị giác:

Sương chùng chình qua ngõ

Giữa bầu trời quang đãng, trong xanh, tác giả chợt bắt gặp một màn sương mờ ảo. Mỏng manh thôi nhưng cũng là nét gì đó báo hiệu thu sắp về. Sương đi qua, “chùng chình” như cố ý chậm lại. Nó đang đón chờ ai hay đang luyến tiếc điều gì? Có lẽ đó là sự luyến tiếc, bịn rịn, không muốn rời xa, khi hạ sắp sửa bước đi, nhường chỗ lại cho thu với những màn sương sớm, với những cơn gió heo may, diu mát. Cái cảm giác mơ hồ, hư hư thực thực ấy đã gợi nên một thời điểm nhạy cảm, rất khó xác định:

Hình như thu đã về.

Hạ vẫn còn đó nhưng trong không gian phải chăng mùa thu đang về? Trước những tín hiệu của thiên nhiên, của đất trời, làm cho lòng người băn khoăn, rạo rực những tình cảm khó tả. Rõ ràng là thu đấy mà cũng chẳng phải đâu! Mọi thứ cứ chuyển động không ngừng, có cái gì gấp gáp, mãnh liệt nhưng cũng có cái gì đó chậm rãi, nhẹ nhàng. Khung cảnh hiện lên vừa đậm nét, vừa mơ hồ. Vì thế, thu đến với tác giả trong một sự cảm nhận rụt rè, kín đáo. Một làn gió nhẹ thoảng qua đưa theo cùng thứ hương vị cỏ cây hay một màn sương êm ái, khẽ lướt đi cũng vương vấn lại sợi dây cảm xúc rung lên thứ nhạc điệu kì diệu mà chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, những trái tim biết rung động trước thiên nhiên mới có.

Khổ thơ mang cái man mác buồn lắng nhưng ngọt ngào thi vị của mùa thu. Từ đây cũng cho thấy con người của thi ca đến với thiên nhiên bằng sự khám phá từng nét nhỏ nhất, tinh xảo nhất của vũ trụ bao la. cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh không có lá rụng, không phải một màu vàng úa héo của không gian mà được tiếp nhận bằng những bước chuyển mình của trời đất. Rất mới lạ và độc đáo. Đó cũng là cái hay tạo nên sự riêng biệt cho Sang thu mà ngay ở bốn câu đầu ta đã thấy.

Thành công của khổ thơ này bên cạnh việc tả cảnh còn là bởi sự cảm nhận tinh tế về một thứ trừu tường như thời gian. Và hai mươi chữ cô đọng, súc tích đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp – đẹp từ chính những bước đi lặng lẽ, thầm thì của nó hay đẹp ở tâm hồn của thi nhân.

(Nguyễn Thuận Yến, lớp 9H1, Trường THCS Trưng Vương,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Bài làm đạt được yêu cầu của bài nghị luận về một khổ thơ. Người viết bằng một giọng văn nhẹ nhàng, đĩềrn đạm, có phần tinh tế đã chỉ ra cách cảm mùa thu bằng các giác quan khác nhau của nhà thơ. Bạn đã cảm nhận đúng và lí giải được sự gửi gắm tình cảm của tác giả qua những hình ảnh thơ được vỗ bằng ngôn từ. Nhận xét của bạn là một nhận xét sắc sảo, chứng tỏ người viết đã cảm nhận bài thơ trong sự so sánh đúng đắn:

Cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh không có lá rụng, không phải một màu vàng úa héo của không gian mà được tiếp nhận bằng những bước chuyển mình của trời đất. Rất mới lạ và độc đáo. Đó cũng là cái hay tạo nên sự riêng biệt cho “Sang thu” mà ngay ở bốn câu đầu ta đã thấy.

Thành công của khổ thơ này bên cạnh việc tả cảnh còn là sự cảm nhận tinh tế về một thứ trừu tượng như thời gian. Và hai mươi chữ cô đọng, súc tích đã tạo nên bức tranh thiên nhiên tươi đẹp – đẹp từ chính những bước đi lặng lẽ, thầm thì của nó hay đẹp ở tâm hồn của thi nhân.

Bài 3

Sang thu là một trong những tác phẩm thành công của nhà thơ Hữu Thỉnh, thể hiện những rung cảm trữ tình của nhà thơ trước thời điểm giao mùa. Trong đó, khổ thơ đầu của bài đã khắc hoạ rõ nét sự bất ngờ, ngỡ ngàng của tác giả khi nhận ra mùa thu đã về:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về.

Với các mùa khác trong năm, ta đều có thể nhận thấy rất rõ những tín hiệu chuyển mùa. Mùa xuân đến với những cơn mưa nhè nhẹ và những lộc non mơn mởn trên cành cây. Hè về mang theo những cơn mưa rào bất chợt, những tia nắng vàng rực rỡ và tiếng ve kêu râm ran. Đông tới cùng những cơn gió buốt lạnh từ phương bắc kéo về trải trên khắp các nẻo đường. Khác biệt hẳn với các mùa trong năm, thu sang một cách nhẹ nhàng, âm thầm, dịu dàng, rất khó nhận biết được. Bằng khứu giác và xúc giác nhạy cảm tinh tế, nhà thơ đã nhận ra những tín hiệu giao mùa của mùa thu:

Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se.

“Gió se” khiến ta liên tưởng tới một cơn gió nhẹ; khô và hơi lạnh – một cảm giác rất thu. Từ “phả” vừa cho thấy sự hoà quyện hài hoà của mùi hương vào làn gió, vừa tạo cảm giác rõ ràng, chắc chắn về những tín hiệu của mùa thu đang về. Sự thoảng qua mà rõ ràng trong nhận thức của tác giả về mùa thu đã được thể hiện rất thành công. Qua đó, tác giả vừa thể hiện được một số đặc trưng của mùa thu như hương ổi đang vào độ chín, là gió se lạnh, vừa khắc hoạ được phần nào nét đẹp nhẹ nhàng mà tinh tế của mùa thu.

Vẻ đẹp của thiên nhiên độ giao mùa đã được thể hiện rõ hơn trong câu thơ thứ ba, nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng khứa giác và xúc giác để nói lên những dấu hiệu của mùa thu thì ở đây, một lần nữa ta thấy được sự cảm nhận sâu sắc hoàn hảo của nhà thơ bằng những hình ảnh tiếp thu từ thị giác:

Sương chùng chình qua ngõ

Vào mỗi buổi sớm mùa thu, ta có thể thấy cảnh vật luôn bị sương trắng bao phủ, đến khi gặp ánh mặt trời chúng mới dần tan đi, tựa như một tấm màn mỏng trùm lên thiên nhiên đang dần được kéo lên. Bằng việc sử dụng từ láy “chùng chình” và phép nhân hoá thành công, tác giả đã cho ta hình dung như màn sương kì ảo ấy còn chậm rãi lướt đi, còn ngập ngừng chưa muốn ra đi. Phải chăng nó đang ngỡ ngàng, say mê ngắm nhìn quang cảnh thiên nhiên giao thoa tuyệt đẹp, hay còn gì khác để vương vấn, quyến luyến, tiếc nuối, không muốn rời xa? Như vậy, chỉ bằng một câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã thể hiện rất đặc sắc, sinh động quang cảnh mùa thu vừa mang nét thơ mộng, huỵển ảo lại vừa nồng nàn cảm xúc trữ tình.

Trước những vẻ đẹp kì diệu của mùa thu, nhà thơ đã bộc lộ rất rõ những cảm xúc của mình. Qua những cảm nhận tinh tế của tác giả, bằng nhiều giác quan khác nhau, ta có thể hiểu nhà thơ là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu mùa thu, yêu làng quê, vì quả thật không yêu quý, không trân trọng thì tác giả không nói lên được những cảm nhận đẹp đến thế. Ngày ở câu thơ đầu, từ “bỗng” đã cho thấy tâm trạng bất ngờ, ngạc nhiên của tác giả khi chợt nhận ra tín hiệu mùa thu đang về. Từ cái bất ngờ ấy, ta nhận thấy xen lẫn vào những cảm xúc ngạc nhiên đó có phần nào sự bâng khuâng, luyến tiếc. Điều này càng được đúc kết bằng câu hỏi tu từ ở cuối khổ thơ:

Hình như thu đã về?

Câu thơ ngắn mà lắng đọng, đan xen nhiều cảm xúc, vừa thực vừa mơ hồ không rõ ràng. Có lẽ ở đây, sự luyến tiếc của tác giả xuất phát từ sự liên tưởng về hình ảnh mùa thu. Cuộc đời con người cũng trôi theo dòng chảy củạ thời gian trong thiên nhiên. Ngỡ hạ còn chưa qua mà thu đã tới rồi, giống như con người chợt nhận ra mình đã bước vào tuổi “sang thu”, lòng không khoi bất ngờ hay lưu luyến. Khổ thơ khép lại mở ra trong lòng người đọc bao cảm xúc, liên tưởng.

Qua những hình ảnh, hương vị quen thuộc, gần gũi đặc tưng của mùa thu, cùng với ngòi bút đặc sắc và những cảm nhận tinh tế, nhà thơ Hữu Thỉnh đã thể hiện thành công vẻ đẹp thiên nhiên độ giao mùa cùng những cảm xúc trữ tình của chính tác giả.

(Khúc Mai Thương, lớp 9A1, Trường THCS Ngô Sĩ Liên,

Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội)

Nhận xét

Một bài viết chắc tay. Bạn đã có những nhận xét có tính chất khám phá về các mùa so với mùa thu: Với các mùa khác trong năm, ta đều có thể nhận thấy rất rõ những tín hiệu chuyển mùa. Mùa xuân đến với những cơn mưa nhè nhẹ và những lộc non mơn mởn trên cành cây. Hè về mang theo những cơn mưa rào bất chợt, những tia nắng vàng rực rỡ và tiếng ve kêu râm ran. Đông tới cùng những cơn gió buốt lạnh từ phương Bắc kéo về trải trên khắp các nẻo đường. Khác biệt hẳn với các mùa trong năm, thu sang một cách nhẹ nhàng, âm thầm, dịu dàng, rất khó nhận biết được.

Người viết đã đặc biệt chú ý đến tính chất giao mùa và cắt nghĩa những xúc cảm của tác giả một cách tinh tế và hợp lí. Những từ ngữ phả, gió se, chùng chình, hình như đã được cảm nhận và phân tích khá thuyết phục.

Theo Nguồn: chúng tôi