Top 5 # Xuất Xứ Của Bài Thơ Sông Núi Nước Nam Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Soạn Bài: Sông Núi Nước Nam

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một danh tướng nổi tiếng đời nhà Lý có công lớn trong việc đánh bại quân nhà Tống vào năm 1075 – 1077. Ông được cho là người đã viết ra bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc (Nam quốc sơn hà).

Ông cũng là vị tướng nổi tiếng nằm trong số 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch sử Việt Nam.

2. Tác phẩm

* Xuất xứ: Sông núi nước Nam là bài thơ nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc. Bài thơ được cho là thơ thần, do thần đọc giúp Lê Hoàn chống quân Tống vào năm 981 và Lý Thường Kiệt chống quân Tống vào năm 1077.

* Thể thơ: Văn bản Sông núi nước Nam được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đây là một trong hai thể thơ rất phổ biến ở đời Đường (thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú), được du nhập sang nước ta và cũng trở thành một thể thơ phổ biến của văn học trung đại.

Quy định về thanh điệu, vần luật trong thơ thất ngôn tứ tuyệt rất chặt chẽ, tuy nhiên chỉ cần lưu ý sự hiệp vần ở chữ thứ bảy trong các câu 1,2,4 (cũng có khi là 2,4).

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

Căn cứ vào lời giới thiệu sơ lược về thơ thất ngôn tứ tuyệt ở chú thích, bài thơ Sông núi nước Nam được làm theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật (có 4 câu, mỗi câu có 7 chữ, gieo vần ở chữ cuối của câu thứ 1,2.4).

Câu 2:

* Sông núi nước Nam được coi như là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta được viết bằng thơ. Tuyên ngôn độc lập chính là lời tuyên bố về chủ quyền đất nước và khẳng định không một thế lực nào được phép xâm phạm vào quyền độc lập ấy.

* Nội dung chính của Tuyên ngôn độc lập trong bài thơ Sông núi nước Nam là:

Khẳng định chủ quyền, nước Nam là của người Nam (hai câu đầu)

Kẻ thù không được phép xâm phạm, nếu xâm phạm thì sẽ phải chuốc lấy bại vong.

Câu 3:

Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về sự biểu ý (bày tỏ ý kiến), nội dung đó được thể hiện theo bố cục:

Hai câu đầu: khẳng định nước Nam là của người Nam, điều này đã được “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” nên không có bất kỳ thế lực nào được phép xâm phạm.

Hai câu sau: Quyết tâm bảo vệ chủ quyền, nếu có ai xâm phạm, chắc chắn kẻ đó sẽ bị bại vong.

Bố cục và cách biểu ý đó rất rõ và chặt chẽ, lời nói chắc nịch dứt khoát theo mạch ý, khiến cho những luận cứ đưa ra đều hết sức thuyết phục.

Câu 4:

Ngoài biểu ý, Sông núi nước Nam vì là một bài thơ nên vẫn có biểu cảm (bày tỏ cảm xúc). Tuy nhiên, tác giả lại không bộc lộ rõ cảm xúc một cách trực tiếp mà ẩn kín vào bên trong. Chính vì thế, người đọc cần phải nghiền ngẫm mới thấy được tình cảm yêu nước mãnh liệt của tác giả được thể hiện trong bài thơ. Hay nói cách khác, nếu không có tình cảm thì tác giả sẽ không thể viết ra được những dòng thơ đầy chí khí như vậy.

Câu 5:

Qua các cụm từ “tiệt nhiên” (rõ ràng, dứt khoát như thế, không thể khác), “định phận tại thiên thư” (định phận tại sách trời”, “hành khan thủ bại hư” (Chắc chắn sẽ nhận lấy thất bại), chúng ta thấy giọng điệu của bài thơ là giọng điệu đanh thép, hào hùng.

Theo chúng tôi

Soạn Bài Sông Núi Nước Nam

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

– Bài thơ dù cho chưa rõ tác giả thực sự là ai nhưng qua những lời kể lại thì có thể là lời thơ của Lý Thường Kiệt (1019 – 1105).

Lý Thường Kiệt (1019 – 1105)

– Ông là một danh tướng lừng lẫy trong lịch sử, một hoạn quan thời Lý và có công đánh bại quân Tống xâm lăng (1075 – 1077).

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

– Có truyền thuyết kể lại, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông đã chỉ định Lý Thường Kiệt đem lính chặn bọn giặc ở tuyến sông Như Nguyệt, vào đêm nọ, quân sĩ nghe trong đền thờ anh em Trương Hống và Trương Hát cất lên tiếng ngâm bài thơ này.

– “Nam Quốc Sơn Hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta.

Bài thơ Sông núi nước Nam

b. Bố cục

– Phần 1 (Hai câu đầu): Khẳng định chủ quyền lãnh thổ đã được phân định rõ ràng.

– Phần 2 (Hai câu cuối): Khẳng định sự quyết tâm chống lại kẻ thù.

II. Soạn bài Sông núi nước Nam chi tiết

Câu 1 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Qua bài Sông núi nước Nam nhận diện thể thơ thất ngôn tứ tuyệt về số câu, cách hiệp vần, số chữ trong câu.

– Bài thơ Nam quốc sơn hà được tác giả viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt với 4 câu và 7 chữ:

+ Các câu 1, 2 và 4 hoặc chỉ có câu 2 và 4 là hiệp vần với nhau ở chữ cuối.

Câu 2 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Sông núi nước Nam được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Vậy thế nào là một bản tuyên ngôn độc lập? Nêu nội dung tuyên ngôn độc lập trong bài thơ này?

Bài thơ Sông núi nước Nam được xem là bản “Tuyên ngôn Độc lập” đầu tiên của dân tộc:

– Khẳng định tuyệt đối với các quốc gia là nước Nam chúng ta có chủ quyền riêng biệt và có hoàng đế đứng đầu trị vì dân tộc.

– Ranh giới lãnh thổ, địa phận nước Nam đã được ghi nhận rõ ràng ở “sách trời” mà không ai có thể chối cãi được.

– Nêu cao sự quyết tâm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, kẻ thù nào tới xâm phạm sẽ bị đánh cho tơi bời.

Câu 3 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Sông núi nước Nam là một bài thơ thiên về sự biểu ý (bày tỏ ý kiến). Nội dung biểu ý đó đã được tác giả thể hiện theo bố cục như thế nào và nhận xét về điều đó.

Soạn bài Sông núi nước Nam thấy được sự thiên về biểu ý:

– Hai câu đầu: Khẳng định tuyệt đối chủ quyền toàn vẹn, sự độc lập, tự chủ của dân tộc:

+ Nước Nam hoàn toàn có lãnh thổ riêng, đất Nam đã có vua Nam ở

+ Phân giới lãnh thổ của người Nam đã được quy định rành rành ở sách trời, điều này đã là chân lý không thể chối cãi được

– Hai câu cuối: Khẳng định quyết tâm đứng lên bảo vệ dân tộc trước kẻ thù

+ Tác giả đã khẳng khái chỉ rõ những kẻ đem quân xâm lược nước ta là đang làm trái đạo làm người và trái cả đạo trời

+ Đưa ra sự cảnh báo đanh thép đến bọn xâm lăng rằng chúng sẽ bị tan tác trước quân và dân ta.

– Nhận xét: Bố cục được sắp xếp logic và chặt chẽ, chủ quyền được nêu trước, sau đó là biểu ý quyết tâm để bảo vệ chủ quyền.

Câu 4 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Ngoài biểu ý thì Sông núi nước Nam có biểu cảm không và nếu có thì thuộc trạng thái nào? Giải thích sự lựa chọn đó?

Nghĩa biểu cảm của bài thơ Nam quốc sơn hà:

– Sự khẳng định hùng hồn, cảm xúc đầy mãnh liệt, tinh thần mạnh mẽ, sắt đá, ý chí quyết tâm, không gì có thể khuất phục nổi.

– Cảm xúc cùng ý chí ấy được tác giả bộc lộ kín đáo qua ngôn ngữ và hình tượng.

Câu 5 (trang 64 sgk ngữ văn 7 tập 1):

Qua các cụm từ “tiệt nhiên”, “hành khan thủ bại hư”,”định phận tại thiên thư”, nhận xét về giọng điệu bài thơ?

Đánh bại mọi kẻ thù xâm lược

Bài thơ có giọng điệu hùng hồn, đanh thép:

– Một lần nữa khẳng định chủ quyền thông qua “thiên thư” là sách trời thì đã là chân lý và không gì có thể chối bỏ hay phủ nhận được.

– Dứt khoát cảnh cáo bọn giặc sẽ phải chuốc bại vong khi gây ra tội ác cho dân tộc ta.

III. Kết luận soạn bài Sông núi nước Nam

1. Giá trị nội dung

Sông núi nước Nam ( Nam quốc sơn hà) được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc khẳng định chủ quyền đất nước. Sự khẳng định tuyệt đối chủ quyền với giọng điệu đanh thép, thể hiện sự quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, cảnh cáo bất kỳ kẻ xâm lăng nào cũng sẽ không có kết cục tốt đẹp khi đụng đến địa phận lãnh thổ đất Nam.

2. Giá trị nghệ thuật

– Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt súc tích, ngắn gọn.

– Ngôn ngữ hùng hồn, dõng dạc, giọng thơ đanh thép, mạnh mẽ.

Cảm Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Sông Núi Nước Nam

Đề bài: Phat bieu cam nghi ve bai tho song nui nuoc Nam. Em hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ sông núi nước nam của Lí Thường Kiệt.

Mở bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Nam quốc sơn hà nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

Như hà nghịch lỗ lai xâm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại thư.

Người xưa kể rằng,Lí Thường Liệt sáng tác bài thơ “sông núi nước nam” trong một cuộc chiến đấu chống quân Tống xâm lược.Ông không chỉ là một vị tướng tài giỏi mà còn là một người có tấm lòng yêu nước thương dân,là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học việt nam.

Thân bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Khi quân Tống do sự chỉ huy của Quách Quỳ và Triệu Tiết cầm quân sang xâm lược nước ta thì quân ta dưới sự chỉ huy của một vị tướng tài ba Lí Thường Kiệt đã chiến đấu dũng cảm không ngại hy sinh và chặn đánh chúng trên sông Như Nguyệt.

Câu thơ đầu:

” Nam quốc sơn hà Nam đế cư”

Ngay từ những dòng thơ đầu tiên tác giả đã đưa ra chân lí “sông núi Nam Việt vua Nam ở” nhân dân ta phải trải qua biết bao cuộc đấu tranh gian khổ để giành lại độc lập chủ quyền của đất nước, chân lí ấy vẫn thật đơn sơ vì nó phản ánh đúng sự gian khổ hy sinh của biết bao nhiêu đồng bào dân tộc.Không chỉ vậy mà dân tộc ta đã nhiều lần khẳng định chân lí ấy bằng chính sức mạnh quân sự của mình,bằng chính tình đoàn kết của những người dân Việt Nam một lòng vì non sông đất nước nhất định phải giải phóng đất nước nhất định phải giành độc lập.

Không những vậy lũ giặc ngoại xâm còn ra sức bóc lột nhân dân ta nặng nề,luôn có tham vọng cướp thuộc địa của ta và biến ta thành thuộc địa của chúng.Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đây tác giả xưng danh nước ta là “Nam” ngầm gạt bỏ ý định của chúng định biến nước ta thành thuộc địa của chúng bấy lâu nay và đồng thời cũng gạt bỏ thái độ khinh miệt nước ta.Tác giả hẳn là người có vốn kiến thức thật uyên bác tinh sâu chỉ từ thể hiện qua những vần thơ mà đã nêu rõ được ý của mình,đặt nước mình là “Nam quốc” tức ngang hàng với “Bắc quốc” (vua phương bắc) đồng thời tác giả còn xưng vua Nam “Nam đế” cũng là bác bỏ ý nghĩ của chúng tự cho rằng chúng là con của chúa trời.

Câu thơ

“Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(vằng vặc sách trời chia xứ sở)

Câu thơ ấy lại một lần nữa khẳng định chủ quyền của nước ta đã được ghi rõ trên sách trời không gì có thể thay đổi được.Sách trời đã chia riêng bờ cõi điều đó là bất khả xâm phạm.Câu thơ ấy đã khiến cho chân lí càng tăng thêm giá trị.Không gì có thể thay đổi được chân lí thiêng liêng ấy,nước nào có vua nước đấy.

Nếu câu thơ thứ hai là khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước Nam Việt ta thì ở câu thơ thứ ba lại là một câu hỏi hướng đến giặc phương Bắc:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

Dịch là:

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Chủ quyền dân tộc Việt Nam ta không chỉ là chuyện của riêng con người mà nó còn là chuyện vằng vặc rõ ràng minh bạch trên có sách trời không thể chối cãi được và không gì có thể thay đổi được điều đó là bất khả xâm phạm. “chúng mày nhất định phải tan vỡ” lại một lần nữa tác giả khẳng định rằng đất nước Việt Nam nhất định chiến đấu đến cùng để bảo vệ bờ cõi non sông đất nước và nhất định những người dân Việt Nam sẽ dùng chính tinh thần kiên quyết ấy để đánh chúng mày tan vỡ buộc phải rút về phương Bắc.

Qua bài thơ tác giả khẳng định chủ quyền độc lập của nước Nam là một chân lí không thể chối cãi được và không gì có thể bác bỏ được.Dân tộc Việt Nam đã bao lần gan góc đứng lên chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng ấy.

Bài thơ “sông núi nước nam” thể hiện niềm tin tưởng và tự hào vào sức mạnh của dân tộc,sức mạnh của tinh thần đoàn kết và sức mạnh của chính nghĩa của dân tộc ta có thể đánh thắng tiêu diệt bất kì kẻ thù nào xâm phạm đến chủ quyền nước ta.Chính vì vậy mà bài thơ đã góp phần khích lệ tinh thần của dân tộc ta tiến lên đánh giặc ngoại xâm và làm cho tinh thần của quân xâm lược bị khiếp vía điều đó đã góp phần đem lại chiến thắng vinh quang cho dân tộc.Đặc biệt bài thơ được thể hiện dưới ngòi bút của Lý Thường Kiệt lại càng làm cho vần thơ thêm cứng rắn và khẳng định chủ quyền của nước Nam ta thêm một lần nữa.

Kết bài: Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam

Bài thơ thiên về biểu ý nhưng khi ta nghiền ngẫm từng câu thơ,ta lại càng thấy được sự mãnh liệt hơn ở trong những vần thơ,câu thơ.và ta lại càng cảm nhận sâu rõ hơn tình yêu mãnh liệt của ông cha ta.Tình cảm mãnh liệt ấy được tác giả gửi gắm sâu vào những vần thơ khiến cho mình như đang được cùng lịch sử. Bài thơ “Sông núi nước nam” xứng đáng là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên là điểm chói ngời trong trang sử dựng nước và giữ nước rất mực hào hùng của dân tộc Việt.Thật xúc động khi ta được học và được cảm nhận những bài thơ có ý nghĩa lớn lao như thế.

TỪ KHÓA TÌM KIẾM Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước nam Cảm nghĩ của anh chị về bài thơ Sông núi nước nam Phát biểu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước nam Cam nghi cua em ve bai tho Song nui nuoc nam Cam nghi cua anh chi ve bai tho Song nui nuoc nam Theo chúng tôi

Phân Tích Bài Thơ Sông Núi Nước Nam Của Lý Thường Kiệt

Phân tích bài thơ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt

Bài làm

Ông cha ta kể rằng: Năm 1076, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lí Nhân Tông sai Lí Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sồng Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh). Bỗng một đêm, quân sĩ chợt nghe từ trong đền Trương tướng quân (thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát là hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt) có tiếng thơ ngâm vẳng ra:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.

Đó là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt theo thể Đường luật, nguyên văn chữ Hán. Chúng ta có thể đọc bản dịch thơ như sau:

Núi sông Nam Việt vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu chưa xác định ai là tác giả bài thơ. Vì bài thơ được vọng ra từ một đền thờ linh thiêng có tác dụng khích lộ quân dân ta quyết tâm chiến đấu chống giặc, nên người dời gọi dây là bài “Thơ Thần”. Bài thơ không có tên. Để tiện ghi nhớ, nhiều người đặt tên là bài Nam quốc sơn hà (Sông núi nước Nam). Như vậy, từ hoàn cảnh ra đời, đến việc tiếp nhận, truyền bá, việc tìm tác giả, việc đặt tên, tác phẩm thơ này đậm chất huyền thoại, linh thiêng. Đó không còn là tiếng nói của con người, mà âm vang tiếng thánh thần, không còn là suy ngẫm cảm xúc của một người – tác giả – mà là trí tuệ, tâm hồn của cả dân tộc Việt Nam xưa cũng như nay.

Bài thơ Nam quốc sơn hà là tác phẩm thiên về biểu ý, ý tướng lộ rõ trong các nghĩa của ngôn từ (kiểu nghị luận). Còn nội dung biểu cảm thì “ẩn kín” sau các lớp ý nghĩa, đòi hỏi người đọc phải nhạy cảm, vừa hiểu ý thơ vừa suy ngẫm, liên tướng, tưởng tượng để đồng cảm với tác giả, rung động cùng hồn thơ.

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Nước Nam là của người Nam ở. Điều hiển nhiên đó đã được sách trời ghi rõ, xác định rõ. Ở câu đầu, ta chú ý hai chữ “Nam đế”. Nam đế là hoàng dế nước Nam, hiểu là “vua nước Nam”. Tại sao tác giả không dùng chữ “Nam vương”, cũng có nghĩa là “vua nước Nam”? Bởi vì, trong quan niệm của những kẻ thống trị phong kiến phương Bắc, thì chỉ có vua của họ mới được phép xưng là “đế”. Họ tự cho mình là “thiên tử” (con trời), hơn tất cả các vị vua ở các xứ sở khác. Dùng chữ “Nam đế”, tác giả Nam quốc sơn hà biểu hiện một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ, ta như nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc, không kẻ nào được phép coi thường. Sau câu thứ nhất vừa sáng ngời ý tưởng vừa dạt dào cảm hứng tự hào, đến câu sau tiếp tục ý tướng và cảm hứng ấy. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” mang âm trầm hùng, rắn chắc như một lời khẳng định dứt khoát. Hai chữ cuối “thiên thư” nghĩa là “sách trời, ý của trời”, tiếp tục nhấn mạnh một lẽ đương nhiên, ngày nay ta gọi là chân lí, là lẽ phải. Như vậy, về nội dung “biểu ý”, hai câu thơ đầu khẳng định chủ quyền đất nước, quyền độc lập, bình đẳng của dân tộc ta. Đồng thời từ ý nghĩa, từ âm điệu và ngôn ngữ thơ toát ra niềm tự hào, kiêu hãnh, thái độ hiên ngang, tư thế ngẩng cao đầu của tác giả bài thơ, của cả dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ.

Hai câu sau:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ hại hư.

Nội dung biểu ý cũng thật rõ ràng: kẻ thù kia, không được xâm phạm. Nếu xâm phạm tới, chúng bay sẽ chuốc lấy thất bại thảm hại. Lời lẽ và âm điệu rắn đanh lại, vừa nêu một phán đoán, vừa cảnh cáo bọn ngoại xâm. Nghe được lời thơ này, hẳn quân dân ta – những con người đã ý thức được chủ quyền đất nước, tin ở luật hiển nhiên của tạo hoá, tin ở “sách trời” – sẽ vô cùng phấn khởi, càng thêm niềm tin và quyết tâm xốc tới, tiêu diệt kẻ thù. Còn bọn ngoại xâm phi nghĩa, khi nghe những lời này – lời thơ, lời thánh thần truyền dạy, – hẳn sẽ không thế yên lòng. Chúng sẽ hoang mang, nghĩ tới tương lai, số phận “thủ bại hư”, sự thất bại tất yếu phải nhận lấy. Lời thơ khác nào lời kêu gọi, truyền hịch, truyền niềm tin, niềm phấn khởi cho quân ta, dồng thời cũng là lời cảnh cáo, lời báo hiệu, gieo sự hoang mang, hoảng hốt tới quân thù. Cũng giống hai câu thơ trên, hai câu thớ cuối bài này đã hài hoà ý tưởng với tình cảm, tính “biểu ý” hài hoà tính “biểu cảm”. Tính biêu ý nổi rõ trên bề mặt ngôn từ, còn tính biểu cảm ẩn sâu trong chữ nghĩa, trong nhạc diệu và trong sự cảm nhộn, liên tưởng suy đoán tự nhiên của người đọc.

Bài thơ Nam quốc sơn hà chính là tiếng nói, ý thức và tình cảm của cả dân tộc Việt Nam trong thời điểm lịch sử quyết liệt, một mất một còn trước hoạ ngoại xâm ở thế kỉ XI. Bài thơ khích lệ những đối tượng cụ thể. Đó là dân tộc Việt Nam, từ người cầm quân cao nhất là nhà vua đến các tướng lĩnh, quân sĩ và tất cả những người dân bình thường nhất. Đồng thời, bài thơ cũng gián tiếp nhằm vào bọn giặc Tống xâm lược lúc bấy giờ. Với dân tộc Việt Nam, người sáng tác, người ngâm thơ khích lệ, động viên, còn với bọn ngoại xâm, thì lên án, cảnh cáo nghiêm khắc. Do đó, Nam quốc sơn hà được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dàn tộc ta. Ở đây thể hiện chân lí lớn lao nhất, thiêng liêng nhất: đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, không kẻ nào được xâm phạm, xâm phạm sẽ bị thất bại. Thơ viết bằng chữ Hán, có nhiều từ Hán Việt, nhưng không quá khó. Nếu biết suy ngẫm cẩn thận, chúng ta vẫn hiểu được tư tưởng, để rồi cộng hưởng với những tình cảm của cha ông, càng thêm yêu mến, tự hào về dân tộc ta, một dân tộc yêu nước thiết tha, không bao giờ chịu cúi đầu trước kẻ thù xâm lược. Và chúng ta cũng hiểu được rằng đây là tiếng nói mở đầu, bởi sau này dân tộc ta còn có những bản tuyên ngôn khác, hào hùng hơn, vang dội hơn…