Top 4 # Ý Nghĩa Của Bài Thơ Trăng Sáng Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Hình Ảnh Vầng Trăng Trong Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ quân đội trưởng thành trước cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông có giàu chất triết lý, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt, suy tư. Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978, ba năm khi chiến tranh kết thúc. Thông qua cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa vầng trăng và con người, bài thơ là lời nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước, bình dị, hiền hậu, từ đó, gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Vầng trăng trong bài thơ là một biểu tượng đa nghĩa.

Trong thi ca trung đại, trăng là biểu tượng của cái đẹp, của thiên nhiên vô tư và thuần khiết. Trong thi ca kháng chiến, trăng là ánh sáng, là người bạn, người thân cùng con người sống và chiến đấu. Trăng canh gác cùng người chiến sĩ trong bài thơ Đồng chí; trăng rọi đường hành quân trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu; trăng tâm tình, sẻ chia trong thơ Hồ Chí Minh,… Có thể nói, vầng trăng luôn kề cận con người mọi lúc, mọi nơi với tấm lòng thủy chung, son sắt bền chặt nhất.

Trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, một lần nữa, vầng trăng hiện lên với đầy đủ ý nghĩa ấy. Vầng trăng là hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn suốt thòi nhỏ tuổi, rồi thời chiến tranh ở rừng. Vầng trăng là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế trăng còn là vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống.

Thuở bé thơ, cuộc sống nơi đồng quê tuy vất vả gian lao nhưng gần gũi với thiên nhiên, có vầng trăng và cây cỏ. Rồi đến khi đi kháng chiến ở rừng, vầng trăng cũng theo bước hành quân:

Trong dòng hồi tưởng, tác giả đã khái quát vẻ đẹp của cuộc sống bình dị, vô tư, hồn nhiên và khẳng định tình cảm gắn bó bền chặt của con người với vầng trăng là “tri kỷ”, “tình nghĩa”. Trăng là người ban chia sẻ mọi vui buồn, trăng đồng cam cộng khổ, xoa dịu những đau thương, nham nhở của chiến tranh bằng thứ ánh sáng mát dịu. Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của ký ức chan hoà tình nghĩa. Hai từ “tri kỷ” là một sự khẳng định đinh ninh nghĩa tình đậm sâu và bền chặt đến nỗi, con người nghĩ rằng:

“ngỡ không bao giờ quêncái vầng trăng tình nghĩa”.

Với sự gắn bó tình nghĩa ấy nhà thơ đã từng tâm niệm “không bao giờ quên”. Giọng thơ hồi tưởng đều đặn nhưng từ “ngỡ” như báo hiệu trước sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện của nhà thơ. Sau chiến tranh, người lính từ giã núi rừng nhưng không trở về miền quê mà lại lên thành phố – nơi đô thị hiện đại – một không gian xa lạ. Khi đó mọi chuyện bắt đầu đổi khác:

Sự thay đổi của hoàn cảnh sống – không gian khác biệt, thời gian cách biệt, điều kiện sống cách biệt đã khiến con người đổ thay chóng quánh. Từ hồi về thành phố, con người say mê trong cuộc sống tiện nghi với “ánh điện, cửa gương” rực rỡ sắc màu. Người lính bình dị năm xưa bắt đầu quen sống với những tiện nghi hiện đại như “ánh điện, cửa gương”. Cuộc sống công nghiệp hoá đã làm át đi sức sống của ánh trăng trong tâm hồn con người. Anh lính đã quên đi chính ánh trăng đã đồng cam cộng khổ cùng người lính, quên tình cảm chân thành, quá khứ cao đẹp nhưng đầy tình người.

Vầng trăng tri kỷ ngày nào bỗng dưng trở thành “người dưng”, người khách qua đường xa lạ, còn con người đâu còn son sắt thuỷ chung. Một sự thay đổi phũ phàng khiến người ta không khỏi nhói đau. Tình cảm xưa kia nay chia lìa. Hành động “vội bật tung cử sổ” và cảm giác đột ngột “nhận ra vầng trăng tròn’ cho thấy quan hệ giữa người và trăng không còn là tri kỷ, tình nghĩa như xưa, vì có người lúc này thấy trăng như một vật chiếu sáng thay thế cho điện sáng mà thôi.

Câu thơ dưng dưng, lạnh lùng, nhức nhối, xót xa miêu tả một điều gì bội bạc, nhẫn tâm vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Có lẽ nào sự biến đổi về kinh tế, về điều kiện sống, tiện nghi lại kéo theo sự thay dạ đổi lòng?. Bởi thế mà ca dao mới lên tiếng nói: “Thuyền về có nhớ bến chăng?”. Nhà thơ Tố hữu trong bài thơ Việt Bắc cũng đã diễn tả nỗi băn khoăn của nhân dân việt Bắc khi tiễn đưa cán bộ về xuôi:

Từ sự xa lạ giữa người với trăng ấy, nhà thơ muốn nhắc nhở: đừng để những giá trị vật chất điều khiển chúng ta. Niềm suy tư của tác giả và tấm lòng của vầng trăng được giải bày trung thực ở hai khổ thơ cuối. Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ, không hẹn trước:

Sự đổi thay của con người không làm vầng trăng cau mặt. Vầng trăng xuất hiện vẫn một tình cảm tràn đầy, không mảy may sứt mẻ. “Trăng tròn” là một hình ảnh thơ khá hay, không chỉ là ánh trăng tròn mà còn là tình cảm bạn bè trong trăng vẫn trọn vẹn, vẫn chung thuỷ như năm xưa. Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn. Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỷ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc.

Từ cái đối mặt trực diện ấy, ánh trăng đã thức dậy những kỉ niệm quá khứ tốt đẹp, đánh thức lại tình cảm bạn bè năm xưa, đánh thức lại những gì con người đã lãng quên. Cảm xúc “rưng rưng” là biểu thị của một tâm hồn đang rung động, xao xuyến, gọi nhớ gợi thương khi gặp lại bạn tri kỉ. Ngôn ngữ bây giờ là nước mắt rưng rức dưới hàng mi. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. “Ánh trăng” nghĩa tình hiện lên đáng giá biết bao, cao thượng vị tha biết chừng nào:

Trăng tượng trưng cho quá khứ vẹn nguyên chẳng thể phai mờ, là người bạn, là nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Mặc cho con người vô tình, “trăng cứ tròn vành vạnh”, không thay đổi gì. Đó là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng. Đó còn là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và những giá trị truyền thống.

Ở đây, có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Trăng tròn vành vạnh, trăng im phăng phắc không giận hờn trách móc mà chỉ nhìn thôi, một cái nhìn thật sâu như soi tận đày tìm người lính đủ để giật mình nghĩ về cuộc sống hòa bình hóm nay. Họ đã quên mất đi chính mình, quên những gì đẹp đẽ, thiêng liêng nhất của quá khứ để chìm đắm trong một cuộc sống xô bổ, phồn hoa mà ít nhiều sẽ mất đi những gì tốt đẹp nhất của chính mình.

Trăng tròn vành vạnh là hiện diện cho quá khứ đẹp đẽ không thể phai mờ. ánh trăng chính là người bạn nghĩa tình mà nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta : con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

Phép nhân hoá trong câu thơ “Ánh trăng im phăng phắc” khiến hình ảnh vầng trăng hiện ra như một con người cụ thể, một người bạn, một nhân chứng, rất nghĩa tình, thủy chung nhưng cũng vô cùng nghiêm khắc đang nhắc nhở con người. “Ánh trăng im phăng phắc” tuy tĩnh lặng nhưng đủ làm để làm con người “giật mình” tự thức bản thân, nhận ra sự vô tình lãng quên quá khứ tốt đẹp, tức là con người đang phản bội lại chính mình. Nó còn có ý nhắc nhở con người nên trân trọng, giữ gìn vẻ đẹp và những giá tri truyền thống.

Có thể thấy, hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể như rừng. Đó hoàn toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dãi, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, khổng mặn mà với vầng trăng. Lúc này, trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, thủy chung; cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi.

Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ cứ tươi đẹp, không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng tư ích kỷ mới có thể dửng dưng vô tình đến vậy. Nhưng vầng trăng ấy bao dung, không “kể chi người vô tình”. Chính thái độ lặng im cao thượng ấy càng làm những ai sớm quên quá khứ nghĩa tình phải giật mình.

Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hòa bình. Những sông, đồng, bể, rừng là hình ảnh tượng trưng, nhưng cũng là hình ảnh thật của những người kháng chiến. Thành phố là môi trường mới, là hình ảnh thật của những người kháng chiến không đặt chân tới. Môi trường mới, hoàn cảnh mới làm cho con người sống cách biệt với thiên nhiên cũng có nghĩa là xa dần quá khứ, lạnh nhạt dần với quá khứ. Ánh trăng nghiêm nghị vằng vặc soi sáng hay cũng chính là lời cảnh báo tình trạng suy thoái về tình cảm, sẽ dẫn đến suy thoái lối sống, suy thoái đạo đức. Nó nhắc nhở con người cần thuỷ chung với quá khứ, vói những điều tốt đẹp của quá khứ.

Vầng trăng và ánh trăng mang ý nghĩa biểu trưng, trở thành hình tượng xuyên suốt bài thơ, tạo thành dòng chảy liên hồi, là sợi dây kết nối con người trong hiện tại và quá khứ đã qua. Cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Từ câu chuyện tưởng như là thường tình nhưng đã thức tỉnh con người. Con người tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị. Bài thơ có ý nghĩa nhắc nhở, củng cố người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ.

Phân Tích Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Ánh Trăng

Phân tích ý nghĩa nhan đề bài thơ Ánh trăng

Trong thi ca, vầng trăng được xem là biểu tượng của cái đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ, là khát vọng tình yêu, hòa bình và cuộc sống trường cửu. Nguyễn Duy đã lấy biểu tượng đẹp đẽ ấy làm nhan đề cho bài thơ là hoàn toàn có dụng ý nghệ thuật đặc sắc, đem đến cho người đọc những cảm xúc mới mẻ, thật đáng trân trọng.

Trước hết, ánh trăng trong bài thơ cùng tên của Nguyên Duy là hình ảnh đẹp. Đó là tất cả những gì gọi là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát của thiên nhiên, vũ trụ. Ánh trăng soi rọi những thánh ngày thơ ấu hồn nhiên, bình dị, đầy mơ mộng và khát khao. Ánh trăng ấy theo con người ra chiến trường, soi rọi bước chân hành quân, động viên, an ủi con người vượt qua khó khăn, thử thách quyết chiến, quyết thắng kẻ thù. Trăng là người đồng đội thân thiết, là đồng chí kiên trung của người lính.

Chưa bao giờ vầng trăng đòi hỏi con người đáp trả điều gì. Nó chỉ biết cho đi thứ ánh sáng kì diệu và chẳng bao giờ than vãn, đố kỵ hay hờn ghét. Trăng hồn nhiên, vô tư như đất trời, cỏ cây. Bởi những phẩm chất cao quý ấy, con người “ngỡ” rằng “không bao giờ quên” “cái vầng trăng tình nghĩa” ấy. Hơn cả một điều tâm niệm, đó là một lời thề thủy chung của người lính đối với vầng trăng.

Nhưng nhan đề “ánh trăng” còn thực sự sâu sắc, ý nghĩa bởi vầng trăng ấy còn là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình – ký ức gắn vói cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cam go mà hào hùng. Cuộc sống hoà bình với “ánh điện của gương”, “phòng buyn-đinh” tiện nghi, thuận lợi đã khiến cho nhà thơ bao lần nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ. Để đến hôm nay, khi bất ngờ đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự bạc bẽo, vô tâm của mình, lòng tràn đầy ân hận, hối tiếc. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Như vậy, Vầng trăng với ánh sáng kì diệu của nó tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

Ánh trăng lặng lẽ toả sáng trong bài thơ hay lặng lẽ như lời nhắc nhở giản dị mà sâu lắng, không được phép lãng quên quá khứ, có những thử thách, những hy sinh, những tôn thất thời đánh Mỹ ác hệt mói có cuộc sống hòa bình ngày hôm nay. Chính những lí do đó, Nguyễn Duy đã lấy hình ảnh này làm nhan đề cho bài thơ là một lựa chọn đúng đắn, hết sức thi vị.

Phát Triển Ngôn Ngữ Thơ Trăng Sáng

Hoạt động của cô

– Cô trò chuyện với trẻ về những hình ảnh được diễn tả trong bài hát … ”

* Hoạt động 1: Hát Rước đèn dưới ánh trăng- Cô trò chuyện với trẻ về những hình ảnh được diễn tả trong bài hát … “

+ Vì sao gọi là trăng rằm?

– Cô giới thiệu bài thơ ” Trăng sáng” của Nhược Thủy và Phương Hoa. – Cô đọc lần 1

+ Đố các bạn biết trăng đêm rằm có hình gì?+ Vì sao gọi là trăng rằm?- Cô giới thiệu bài thơ ” Trăng sáng” của Nhược Thủy và Phương Hoa.- Cô đọc lần 1

* Hoạt động 2: – Cô đọc từng đoạn xen kẽ đàm thoại gợi mở tư duy cho trẻ + Cô đọc 4 câu thơ đầu. Có phải trăng lúc nào cũng tròn không? + Cô đọc 4 câu cuối Vì sao nói trăng theo bước mình? – Cô cho trẻ đọc thơ cùng với cô : cả lớp, từng nhóm …

– Trò chuyện về nội dung bài thơ* Hoạt động 2:- Cô đọc từng đoạn xen kẽ đàm thoại gợi mở tư duy cho trẻ+ Cô đọc 4 câu thơ đầu.Có phải trăng lúc nào cũng tròn không?+ Cô đọc 4 câu cuốiVì sao nói trăng theo bước mình?- Cô cho trẻ đọc thơ cùng với cô : cả lớp, từng nhóm …

– Đàm thoại:

+ Các con vừa đọc bài thơ gì?

+ Con thấy trăng sáng như thế nào?

+Tác giả thấy trăng giống những gì?

+Trăng trong bài thơ của tác giả như thế nào?

– Cô đọc lần 2 kết hợp cùng trẻ

3.Hoạt động 3

– Cho trẻ đọc thơ:

– Kết hợp với trình chiếu bằng powerpoint

– Trẻ hát vang bài hát ‘Rước đèn dưới ánh trăng”

– Trăng có hình tròn

gian người ta tưởng tượng ra khi nhìn thấy vẻ huy hồng lộng lẫy của ánh trăng đêm rằm” … – Lắng nghe

– hình ảnh trong dângian người ta tưởng tượng ra khi nhìn thấy vẻ huy hồng lộng lẫy của ánh trăng đêm rằm” …- Lắng nghe

+ Quan sát tranh

– Trẻ cảm nhận nội dung bài thơ

– Nghe cô đọc thơ

Trẻ trả lời theo hiểu biết

ở đâu cũng nhìn thấy trăng

– Cả lớp đọc thơ

– Trăng sáng của Nhược Thủy

– Trăng tròn như cái đĩa

– Giống con thuyền trôi

– Trăng đẹp

– Trẻ đọc thơ

– cá nhân, từng nhóm, cả lớp

Ý Nghĩa Câu Chuyện Sự Tích Chú Cuội Cung Trăng

Dân gian xưa có câu thơ:

Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời. Cha còn cắt cỏ trên trời, Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên. Ông thời cầm bút, cầm nghiên, Bà thời cầm tiền đi chuộc lá đa.

Hình ảnh chú cuội đã vô cùng quen thuộc trong kho tàng truyện cổ tích, văn học dân gian Việt Nam, song không phải ai cũng hiểu được những ý nghĩa của nó. Tuy hư cấu, nhưng cũng chứa đựng rất nhiều giá trị cốt lõi ta cần học hỏi.

Tóm lược về sự tích chú Cuội cung trăng

Ngày xửa ngày xưa có một tiều phu tên là Cuội. Một hôm Cuội vào rừng, bỗng đâu gặp một con hổ con xông đến. Không kịp tránh, anh đành liều mạng vung rìu lên đánh nhau với hổ.  Hổ còn non nên thua sức người, bị Cuội bổ một rìu, lăn quay ra đất. Vừa lúc đó, hổ mẹ về tới nơi. Cuội chỉ kịp quăng rìu,  leo tót lên cây. Từ trên cao nhìn xuống, Cuội thấy hổ mẹ chạy đến một bụi cây gần đó, đớp một ít lá về nhai mớm cho con. Khoảng giập bã trầu, hổ con tự nhiên cựa quậy, vẫy đuôi rồi sống lại. Chờ cho hổ mẹ tha con đi nơi khác, Cuội tìm đến bụi cây kia, đào gốc mang về.

Từ khi có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Một lần, Cuội cứu được con gái một phú ông, được phú ông gả cô gái ấy cho. Vợ chồng Cuội sống với nhau thật êm ấm. Nhưng một lần, vợ Cuội trượt chân ngã vỡ đầu, Cuội rịt lá thuốc cho mà mãi không tỉnh lại. Thương vợ, Cuội nặn thử bộ óc bằng đất cho vợ rồi rịt thuốc lại. Không ngờ vợ Cuội sống lại, tươi tỉnh như thường. Nhưng từ đó, người vợ mắc chứng hay quên.

Một lần, vợ Cuội quên lời chồng dặn, đem nước giải tưới cho cây thuốc. Vừa tưới xong, ai ngờ cây thuốc lững thững bay lên trời. Thấy thế, Cuội nhảy bổ đến, túm vào rễ cây. Nhưng cây thuốc cứ bay lên, kéo theo cả Cuội lên tít cung trăng.

Ngày nay, khi nhìn lên mặt trăng, ta vẫn thấy chú Cuội ngồi dưới gốc cây thuốc quý.

Ý nghĩa của tác phẩm sự tích chú Cuội cung trăng

Giải thích hiện tượng tự nhiên

Ngày xưa, nhân dân ta chưa có nhiều phương tiện khoa học hỗ trợ cho việc khám phá các hiện tượng tự nhiên. Họ không có cách nào để lí giải những hiện tượng tự nhiên hàng ngày, không còn cách nào khác nhân dân ta đã sự dụng trí tưởng tượng của mình để giải thích. Mô típ này ta gặp trong rất nhiều tác phẩm trước đó, như trong Sơn Tinh, Thủy Tinh giải thích về lũ lụt, nắng mưa; Con rồng cháu tiên giải thích về nguồn gốc của con người. Chú cuội cung trăng là một câu chuyện hư cấu nhằm lý giải những chỗ lõm của Mặt Trăng được nhìn thấy có dạng nối liền trông giống như một người đang ngồi dưới gốc cây đa vào những dịp trăng tròn, đặc biệt là ngày Rằm Tháng Tám.

Đó là ý nghĩa rõ ràng nhất của câu chuyện, giải thích theo trí tưởng tượng này làm phong phú thêm cho tri thức của con người trong điều kiện chưa có những phương tiện khoa học hỗ trợ cho con người, cũng như làm thỏa mãn sự tò mò của người dân ngày xưa.

Thể hiện ước mơ chinh phục vũ trụ rộng lớn

Nhân dân ta có truyền thống hiếu học, luôn luôn tìm tòi và không ngừng sáng tạo. Nhân dân ta có câu: 

Đi một ngày đàng, học một sàng khôn

Hay 

Người mà không học, khác gì đi đêm Người mà không học như ngọc không mài

Để thỏa mãn trí tò mò của con người, câu chuyện được viết ra để giải thích về những điều mà con người không thể kiểm chứng, điều này thể hiện tinh thần ham học hỏi rất cao của người Việt, tìm đến tận gốc của vấn đề. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện khát vọng được đặt chân lên mặt trăng và chinh phục vũ trụ rộng lớn, nơi mà con người chưa thể đặt chân đến. Mong muốn được khám phá những vùng đất mới, để tìm ra ngọn ngành của tri thức, cũng như thể hiện được tầm vóc trong ước mơ của con người Việt Nam là ý nghĩa mà tác phẩm muốn truyền tải.

Giá trị to lớn của sự hữu hạn

Trong tác phẩm, ta có thể thấy lá thuốc có công dụng cải tử hoàn sinh, có thể đưa một người đã chết về với cuộc sống thường ngày. Mong muốn bất tử là ước mơ lớn của cả nhân loại. Song, người vợ sau khi được cứu sống đã không thể như người bình thường. Điều đó chứng tỏ cuộc sống của con người thì phải có giới hạn, cố gắng đi ngược lại quy luật tự nhiên con người phải trả cái giá rất đắt. Hậu quả là chú Cuội đã bị kéo lên cung trăng không thể quay về.

Biết cuộc sống của ta là chỉ hữu hạn, một người chỉ sống có một lần, giúp chúng ta thêm trân quý những gì của quá khứ, sống tốt cho hiện tại, và biết hướng tới tương lai. Việc có khả năng cải tử hoàn sinh sẽ khiến con người không còn biết trân quý chính tính mạng của mình. Bất cứ thứ gì nếu có khả năng mất đi thì lúc đó nó mới còn quý giá. Vì vậy hãy nỗ lực hết mình để sống một cuộc đời trọn vẹn, thay vì cố gắng tìm kiếm sự bất tử. Những thứ đã mất đi thì không bao giờ có thể lấy lại được.

Chú cuội cung trăng là một trong những câu chuyện phổ biến nhất của văn học Việt Nam, thể hiện đúng tâm hồn trong sáng và có phần ngây ngô của những người nông dân thời xưa, xứng đáng là một tác phẩm hay.

Thảo Nguyên