Top 11 # Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Về Loài Người Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Anhngucongdong.com

101 Truyện Cổ Tích Hay Và Ý Nghĩa Nhất Về Loài Vật

Truyện cổ tích có lẽ đã gắn liền với biết bao thế hệ trẻ em không chỉ ở Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Trong đó, các câu chuyện cổ tích loài vật cũng được nhiều trẻ em lắng nghe và yêu thích.

1. Cún con đi lạc – câu truyện cổ tích về loài vật phổ biến

Truyện Cún con đi lạc là một câu truyện cổ tích về loài vật phổ biến nói về một cậu bé bị lạc mất con cún yêu quý và cậu đi tìm kiếm chú cún xung quanh nhưng vẫn không thấy cún đâu cả. Cậu đã đi lang thang khắp nơi từ sáng đến tối để tìm chú cún nhưng vẫn không tìm thấy. Sau đó cậu đã buồn bã trở về nhà và cậu đã gặp anh hàng xóm đang ngồi bên hiên nhà, cậu đến gần chúc anh ngủ ngon và hỏi anh thăm anh xem có thấy chú cún con của mình ở đâu không. Và thật bất ngờ vì anh hàng xóm đang giữ chú cún con của cậu bởi vì anh không biết chú cún đó là do cậu bé nuôi.

Ý nghĩa câu truyện: đừng bao giờ bỏ cuộc khi chưa cố gắng nổ lực thật nhiều

2. Truyện Con lừa hát

Truyện Con lừa hát kể về một con lừa vì không thích những món ăn mà ông chủ cho nó ăn nên nó đã quyết định đi đến một cánh đồng gần đó để ăn cỏ mà nó thích. Một ngày nọ, trên đường đi ra cánh đồng chú lừa gặp một con cáo và hai con vật kết bạn với nhau. Chúng đi và tìm thấy cánh đồng trồng dưa hấu và cùng nhau ăn. Lừa đã ăn rất nhiều bởi vì dưa hấu quá ngon và nó cao hứng nói với cáo rằng nó muốn hát. Cáo mới cảnh cáo rằng nếu lừa hát thì con người sẽ biết chúng đang phá hoại mùa màng của họ và sẽ đến đánh chúng nó chết mất. Nhưng lừa không thèm nghe lời cảnh cáo của cáo mà vẫn hát. Khi thấy lừa hát, con cáo liền nhành chóng nhảy qua hàng rào và biến mất trước khi người dân làng chạy đến đánh lừa.

Con lừa hát là một câu truyện cổ tích loài vật quen thuộc

Ý nghĩa câu truyện truyện cổ tích về loài vật này chính là hãy học cách biết lắng nghe những gì người khác nói.

3. Dê và cáo – truyện cổ tích về loài vật với bài học sâu sắc

Truyện kể về một con cáo nhân lúc con sư tử hung bạo đi ra ngoài mà lẻn vào hang của sư tử ăn tất cả thức ăn có trong hang. Sau khi ăn uống no nê, cáo đi dạo xung quanh và tận hưởng cảm giác vui vẻ lâng lâng sau khi ăn một bữa ngon lành. Không may nó đã bị té xuống một cái giếng sâu nhưng không có nhiều nước. Nó cố gắng leo lên để thoát ra ngoài nhưng lại không thành công. Bỗng nhiên khi đó cáo nghe giọng của dê hỏi rằng cáo đang làm gì ở dưới đó vậy. Cáo mới ngước nhìn và nói rằng nó ở làng bên nhưng đang gặp hạn hán nên nó phải nhảy xuống giếng để mà lấy nước. Nghe cáo nói vậy dê liền nhảy xuống giếng. Lợi dụng việc dê nhảy xuống, cáo nhanh chóng dựa vào mấy cái sừng dài của để leo lên khỏi giếng. Sau khi leo lên cáo còn quay lại nói dê thật ngốc khi đã tin lời cáo và nhảy xuống giếng.

Truyện dê và cáo là một bài học về lòng tin

Ý nghĩa câu truyện: trong cuộc sống nhất định không được tin tưởng ai đó một cách mù quáng.

4. Truyện Hai con gà trống

Truyện kể về hai con gà cùng một mẹ sinh ra. Khi chúng lớn lên thì thường xuyên cãi cã nhau. Con nào cũng tự cho mình đẹp đẽ, oai phong và có quyền làm Vua của nông trại hơn. Hôm nọ sau khi cãi nhau, chúng đã lao vào đánh nhau quyết liệt, rằng còn nào thắng thì sẽ được làm Vua của nông trại. Đánh nhau đến cuối cùng thì dĩ nhiên có một con chiến thắng và một con thua cuộc. Con gà thắng cuộc thắng trận nhảy lên hàng rào và cất tiếng gáy để ăn mừng sự chiến thắng của mình. Nào ngờ vì chính tiếng gáy đó mà bị chim ưng để ý đến và xà xuống bắt con gà thắng cuộc đi mất. Còn con gà thua cuộc vẫn đang nằm thoi thóp thở dưới đất.

Ý nghĩa câu truyện cổ tích về loài vật này muốn hướng đến sự giáo dục về tình cảm gia đình. Đã là anh em trong gia đình thì phải biết yêu thương, đùm bọc lẫn nhau để không bị người ngoài ức hiếp, đàn áp.

5. Truyện Con cáo và chùm nho

Đây là một câu truyện cổ tích về loài vật kể về một con cáo bắt gặp một chùm nho chín đỏ căng mọng hấp dẫn khiến cáo thèm nhỏ rãi nên đã có ý định nhảy lên để hái chùm nho. Vì khoảng cách của cáo và chùm nho khá xa nên nó đã đi xa gốc cây một khoảng để lấy được đà nhảy lên hái chùm nho, nhưng lần nhảy đầu tiên thì cáo không với tới chỉ cần một xíu nữa là có thể hái được chùm nho.

Nó cố gắng thử thêm vài lần nữa nhưng dù cố gắng đến mấy cũng không thể, tất cả đều vô ích. Cáo ngồi xuống và nhìn chùm nho tức tối, và tự nhủ thầm rằng nó ngu lắm, chùm nho còn xanh làm sao mà ăn được, nó phải mất bao nhiêu công chỉ để hái chùm nho còn xanh và chua chát kia không đáng người ta ngó tới. Sau đó khinh khỉnh bỏ đi không thèm hái nữa.

Ý nghĩa câu truyện: nhắc nhở chúng ta nên biết được thực lực bản thân của mình. Đừng tự lấy cớ, tự dối lòng mình để tự biện minh cho khả năng thấp kém của mình.

6. Truyện cổ tích loài vật – Thỏ và Rùa

Ngày xửa ngày xưa, trong khu rừng nọ có thỏ và rùa là đôi bạn rất thân thiết với nhau. Thế nhưng, vào một ngày kia, cả hai lại xảy ra trận cãi vã chỉ vì muốn biết ai là người chạy nhanh nhất. Vậy là thỏ và rùa liền tổ chức một cuộc thi chạy để quyết định ra ai là người chạy nhanh hơn.

Lúc bắt đầu cuộc đua, chú thỏ chạy rất nhanh, vượt xa chú rùa cả một đoạn đường rất dài. Thỏ ta thấy vậy liền nghĩ bụng rằng rùa còn lâu mới đuổi kịp với mình nên chú thỏ cứ vui vẻ chậm rãi đi bộ, bắt bướm, đùa vui hái hoa, từ chỗ này đến chỗ khác cho đến khi thỏ mệt quá liền tìm gốc cây lớn để ngồi nghỉ và ngủ quên lúc nào không hay.

Trong lúc đó, chú rùa vẫn chậm rãi kiên trì vượt mọi vất vả khó nhọc, để đi từng bước trên đường đua.

Sau một khoảng thời gian rất lâu, Thỏ mới chợt tỉnh dậy, nhận ra Rùa đã đi rất xa và gần tới vạch đích. Thỏ thấy vậy liền ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo nhưng đã muộn, chú rùa đã tới vạch đích đầu tiên. Và thế là chú thỏ đành phải chịu thua trước chú rùa.

7. Truyện cổ tích loài vật – Vịt con cẩu thả

Chuyện cổ tích loài vật sau đây sẽ kể về một chú vịt con có tính cách cẩu thả.

Vào một ngày đẹp trời, chú vịt con ra sông tập bơi, nó thường xuyên cởi và vứt quần áo bừa bãi lung tung trên bờ mà không chịu cất gọn gàng, mà chỉ muốn nhảy thẳng xuống sông và tập bơi cho thỏa thích. Một lúc sau, quần áo của chú vịt con do vứt bừa bãi nên đã bị dòng nước làm trôi mất, sau khi tập bơi xong, vịt con liền lên bờ để mặc đồ nhưng lại không thấy quần áo đâu nữa, chú vịt con liền òa lên khóc rất to. Lúc này, do không còn quần áo để mặc, vịt con liền lấy mấy chiếc lá sen to để che lên người rồi vội vàng chạy về nhà.

Trong lúc vịt con đang chạy về nhà, khi chạy qua bãi cỏ thì bị chú Thỏ bắt gặp, nó liền cười và nói to: “Lêu lêu bạn vịt bị hở mông kìa, xấu hổ chưa kìa!”

Chú vịt con nghe thấy thế nên rất xấu hổ, nó đành phải chạy nhanh hơn để Thỏ không trêu chọc nữa.

Khi chạy ngang qua khu rừng, chú khỉ đang ngồi trên cây nhìn xuống bỗng thấy vịt con chạy nhanh qua, nó cũng liền ôm bụng cười to: ” Nhìn kìa, vịt con không mặc đồ, lấy lá sen che người lòi cả mông ra kìa. Ha ha”

8. Truyện cổ tích loài vật – Bác Voi tốt bụng

Vào một buổi sáng mùa xuân đẹp trời, gà con rủ vịt con ra sân vườn chơi. Tại đây, Gà con rủ vịt con đi bắt sâu bọ, các con côn trùng gây hại cho các loại cây trong vườn. Do có mỏ nhọn nên gà con bắt sâu bọ rất nhanh và dễ dàng, nhưng vịt con lại không có mỏ nhọn nên không thể nào bắt sâu bọ giống gà con được. Đột nhiên, có một bác voi xuất hiện, bác voi này dùng chiếc vòi của mình để khều ra con sâu rồi đưa lại cho chú vịt con. Cả chú gà con và vịt con đều nói lời cảm ơn đến bác voi.

Tiếp đó, Vịt và gà con rủ nhau ra ao tập bơi. Chú vịt con bơi lội rất nhanh nhờ lớp màng được bọc ở chân, còn chú gà con do không biết bơi nên vô tình bị rớt xuống ao, làm cho toàn thân chú gà con bị ướt lạnh và dính đầy nước. Đúng lúc này, bác voi lại xuất hiện, bác voi liền cứu gà con đưa lên bờ, rồi bác rất vui vẻ còn đùa nghịch với gà con và vịt con bằng cách phun vòi nước lên người chúng. Cả gà và vịt con đều cười thật vui và chạy trốn đi, còn lũ ruồi bu đậu trên lưng bác voi vì sợ hãi quá cũng phải bay đi hết.

Ngoài ra, bác voi còn biết thổi kèn acmônica. Bác thổi hay đến nỗi làm cho gà con và vịt non đang chơi đùa chỗ khác cũng phải chạy tới đó để nghe, còn các chú chim đang đậu trên cây cũng phải ngừng hót để cùng nhau lắng nghe những giai điệu tuyệt vời mà bác voi đang thổi. Ngày hôm đó, chú gà và vịt con đều rất yêu quý bác voi tốt bụng này.

Với câu chuyện cổ tích loài vật này, khuyên các bé luôn thể hiện lòng tốt bụng, giúp đỡ người khác.

9. Truyện cổ tích loài vật – Rùa con tìm nhà

Chuyện cổ tích loài vật này nói về một chú rùa con nọ, khi mới được nở ra vài ngày đã nhanh chóng tìm kiếm ngôi nhà mình ở. Chú rùa thấy tổ ong trên cành cây cao, chú cứ nghĩ đó là nhà của mình, chú rùa con liền ngước cổ lên và hỏi: “Đấy có phải là ngôi nhà của mình không ạ?”.

Thay vì trả lời, cả một đàn ong liền bay xuống phía dưới khiến cho chú rùa con hoảng sợ quá nên liền thụt cổ vào mai rùa và nằm im như tượng.

Tiếp theo, chú rùa bò tới góc của một bức tường cũ. Chú có thấy một cái hang chuột nhỏ, rùa con đang tính chui vào trong hang thì liền bị một chú chuột từ bên trong chặn lại: ” Cái hang này là nhà ở của chúng tớ, chứ không phải ngôi nhà của bạn đâu, rùa ơi”. Thế là chú rùa con tiếp tục đi tìm ngôi nhà của mình, khi tới một dòng sông nhỏ, rùa con nghĩ rằng: ” Đây có thể là ngôi nhà mình sống ở dưới nước”. Vừa nói xong, rùa con liền nhảy xuống sông và bơi, bơi được một đoạn ngắn, chú rùa con lúc này đã đuối sức và mệt mỏi nên đành phải quay lại bò lên bờ.

Qua chuyện cổ tích loài vật trên, các bé nên suy nghĩ kĩ trước khi làm một việc gì đó, tránh sai sót, nhầm lẫn.

10. Truyện cổ tích loài vật về con hươu

Trong một khu rừng kia, có một bầy hươu đang đứng ăn cỏ bên cạnh dòng suối thơ mộng. Các con hươu đều sở hữu đôi mắt đen tròn, cùng với những bộ lông vàng và nâu mịn màng như nhung lụa cùng với những dấu hoa trắng xóa.

Trong lúc cả bầy hươu đang ăn cỏ thì bỗng xuất hiện một chú hươu con bước tới gần. Nhìn bộ dạng của chú hươu non trong rất vất vả với một chân bị thương, bộ lông thì bị dính đầy bùn đất, có lẽ chú hươu non này đã bị thương rất nặng.

Chú hươu non này tiến tới gần và nói: “Các bạn cho phép mình ăn cỏ cùng được không?”

Bầy hươu nghe nói vậy liền cùng đồng thanh trả lời: “Bạn cứ tới đây và ăn cỏ cùng với tụi mình!”

Sau đó, một vài con trong bầy hươu liền tiến tới tảng đá to và vươn hai chân ra phía trước và dùng gạc để cắt rụng mấy cái chồi và nói: ” Nè bạn ăn đi, nếu cần chúng mình sẽ lấy thêm cho bạn mấy cái nữa!”. Chú hươu con liền cảm ơn và ăn chúng rất ngon lành.

Ngay lúc đó, có một bác hươu già đi ngang qua và chứng kiến được cảnh bầy hươu đang giúp đỡ bạn hươu non, bác hươu già rất vui và tấm tắc khen: “Các cháu giỏi lắm!”

Nghe bác hươu khen như thế, cả bầy hươu đầy rất vui mừng vì đã làm được một việc tốt giúp đỡ mọi người xung quanh.

Chuyện Cổ Tích Về Loài Người

“Trời sinh ra trước nhất Chỉ toàn là trẻ con Trên trái đất trụi trần Không dáng cây ngọn cỏ”

Những câu thơ đáng yêu trên được trích từ bài thơ “Chuyện cổ tích về loài người” của nhà thơ nổi tiếng Xuân Quỳnh. Hôm nay, Vườn cổ tích sẽ kể cho các bé nghe câu chuyện cổ tích về loài người được chuyển thể từ bài thơ trên với mục đích giúp các bé dễ hiểu và nắm bắt được một cách đầy đủ nhất nội dung cũng như ý nghĩa của bài thơ!

Chuyện là cách kể ngược về sự xuất hiện của loài người trên trái đất một cách rất thú vị. Từ đó khẳng định vai trò quan trọng của trẻ em – những mầm non đáng yêu rất cần được cha mẹ và người lớn bảo vệ.

Ngày xửa ngày xưa, bầu trời và mặt đất đều tối tăm, không có lấy một nhành cây, ngọn cỏ, cũng không có bất kì màu sắc gì. Khắp nơi đều thiếu vắng sự sống. Và rồi trên Trái đất thân yêu của chúng ta, tạo hóa đã ban tặng những em bé rất dễ thương, đáng yêu. Mắt chúng sáng lắm trong veo và hồn nhiên nhưng chúng chưa thấy được gì đâu. Thế rồi, mặt trời nhô lên cao tròn vành vạnh và soi sáng khắp không gian giúp cho những đôi mắt ấy được thấu tỏ.

Màu xanh bắt đầu từ ngọn cỏ cao bằng gang tay và nhỏ như sợi tóc, màu đỏ thì bắt đầu từ bông hoa nhỏ xíu như cái cúc. Những chú chim líu lo cất tiếng hót, làm bầu bạn với trẻ em và đem lại nguồn vui cho vạn vật. Gió nâng tiếng hót bay cao bay xa tới muôn trung mây, muôn trùng dặm.

Muốn trẻ con được tắm, sông suối bắt đầu xuất hiện đem đến dòng nước ngọt mát lành. Biển mênh mông sóng vỗ, đem lại nhiều cá to. Những cánh buồm lớn đưa trẻ em đi xa tới những chân trời mới, tìm tòi và khám phá.

Nhưng trẻ thơ cần lắm vòng tay của mẹ, lời ru ngọt ngào, tình yêu thương lớn lao vô bờ bến nên mẹ sinh ra để nâng niu, chăm sóc, dỗ dành. Những câu ca dao vọng về với cái bống cái bang, cánh cò trắng bay lả bay la, cây đa, mái nước, sân đình là quê hương thân thương hiện lên qua bao câu hát ru của bà, của mẹ. Nào sự tích thánh Gióng, sự tích trầu cau, sự tích Sọ Dừa, chuyện cô Tấm ở hiền, Lý Thông ở ác,… lần lượt hiện ra qua giọng kể ấm áp của bà, đưa trẻ em vào những miền cổ tích cực lạc. Nào ông Bụt, bà tiên, nào hoàng tử, công chúa xuất hiện trong giấc mơ của trẻ em về một cuộc sống tười đẹp, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác, người tốt nhất định được hưởng hạnh phúc, kẻ ác nhất định bị trừng trị thích đáng.

Ý Nghĩa Truyện Cổ Tích Thạch Sanh

Giới thiệu chung về truyện cổ tích Thạch Sanh

Giới thiệu chung về cổ tích Thạch Sanh

Nguồn cảm hứng toàn mạch của câu truyện cổ tích dựa vào sự ra đời của Thạch Sanh. Thạch Sanh là con một trong gia đình tiều phu tốt bụng. Từ nhỏ, chàng đã sống trong sự nghèo khổ. Nguồn thu nhập chính của gia đình là từ nghề kiếm củi. 

Nhưng xuất thân của chàng vô cùng đặc biệt. Chành chính là con của Ngọc Hoàng cho đầu thai xuống hạ giới. Mẹ chàng đã mang thai chàng trong bụng tới mấy năm mới sinh ra.

Từ bé, Thạch Sanh đã được các thiên thần dạy cho võ nghệ tinh luyện và các phép thần thông biến hoá. Điều này mang ý nghĩa tô đậm xuất thân và quá trình lớn lên kỳ lạ và đặc biệt của Thạch Sanh. Đồng thời, chi tiết đó giúp làm tăng tính hấp dẫn của mạch câu chuyện.

Truyện cổ tích Thạch Sanh mang nhiều giá trị nghệ thuật cao

Truyện cổ tích Thạch Sanh mang tính nghệ thuật cao. Kết cấu và cốt truyện logic, mạch lạc đầy tính hấp dẫn. Tình tiết truyện được sắp xếp một cách khéo léo và vô cùng hoàn chỉnh. Tác giả còn xây dựng hình tượng hai nhân vật Thạch Sanh – Lý Thông đối lập nhau hoàn toàn. Điều dó tạo nên một cốt truyện vững chắc và logic. Tất cả các chi tiết và yếu tố thần kỳ được cấu thành đều mang ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh có thẩm mỹ cao.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh chủ yếu ngợi ca những chiến công rực rỡ và ca ngợi những phẩm chất đáng quý của người anh hùng dân gian. Đồng thời, câu chuyện cũng thể hiện những mơ ước cháy bỏng về sự đổi đời, thoát nghèo của người nông dân. Hiện thực hoá ước mơ cái thiện thắng cái ác, chính nghĩa ắt thắng gian tà, người tốt sẽ được đền đáp kết quả xứng đáng, hoà bình chắc chắn thắng chiến tranh, các dân tộc sống trong hòa bình sẽ luôn được yên ổn, hạnh phúc và phát triển.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh

Từng chi tiết nhỏ trong câu chuyện đều góp phần mang tới ý nghĩa tốt đẹp cho câu truyện cổ tích Thạch Sanh. Mỗi ý nghĩa là bài học mà cha ông muốn gửi tới thế hệ con cháu đời sau. Chính vì thế, chúng ta phải biết trân trọng, phải cảm nhận thật sâu sắc về truyện cổ tích này. Một vài ý nghĩa có thể điểm qua như sau:

Ý nghĩa tiếng đàn trong truyện Thạch Sanh

Ý nghĩa tiếng đàn trong truyện Thạch Sanh

Âm nhạc là yếu tố luôn được cho là có phép màu thần tiên. Đây cũng là chi tiết khá phổ biến và đặc biệt trong mọi thể loại truyện cổ dân gian Việt Nam. Tiếng đàn được cất lên ở đây đại diện cho điều tốt, cái thiện kết hợp cùng với tinh thần yêu chuộng hoà bình của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Tiếng đàn như một loại vũ khí vô hình đặc biệt có khả năng cảm hoá tinh thần và thu phục kẻ thù giặc ngoại xâm. Tiếng đàn đã được xây dựng thành một chi tiết đặc biệt thần kỳ không chỉ trong truyện cổ tích Thạch Sanh mà còn ở những câu chuyện cùng thể loại khác nữa. 

Bên cạnh đó, tiếng đàn được sử dụng như một liều thuốc cứu công chúa khỏi căn bệnh nan y. Từ đó, Thạch Sanh có cơ hội được giải oan và vạch trần bộ mặt thật của Lý Thông. Điều này tượng trưng cho công lý luôn chiến thắng.

Tiếng đàn được xây dựng với vai trò quan trọng xuyên suốt mạch câu chuyện. Chúng được cảm hóa nhờ người thổi đức độ. Tình tiết tuy hư cấu nhưng lại vô cùng ý nghĩa.

Ý nghĩa niêu cơm thần trong truyện cổ tích Thạch Sanh

Ý nghĩa niêu cơm thần trong Thạch Sanh

Khi tất cả quân của 18 nước cùng với chư hầu kéo sang, Thạch Sanh đã nhanh chóng gảy đàn cho chúng nghe. Trước khi ra về, Thạch Sanh còn chiêu đãi thêm món niêu cơm thơm ngon cho bọn chúng ăn. Điểm kỳ lạ là cứ xới hết thì niêu cơm lại đầy, không có dấu hiệu vơi đi.

Hình ảnh niêu cơm thần trong câu chuyện dân gian này mang tới cho người đọc rất nhiều ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh. Mà những ý nghĩa ấy được người dân Việt dùng để ứng dụng trong cuộc sống về sau này rất nhiều.

Thay vì sử dụng vũ lực để chống vũ lực, Thạch Sanh đã dùng tới trí thông minh của mình để thu phục quân thù. Điều đó thể hiện một tư tưởng ưa chuộng hoà bình, yêu nước, nhân nghĩa của toàn thể nhân dân ta.

Qua hình ảnh chi tiết này, tác giả còn phản ánh mơ ước, mong muốn của toàn thể nhân dân ta về một cuộc sống ấm no hạnh phúc và dân giàu nước mạnh.

Ý nghĩa truyện cổ tích Thạch Sanh đầu tiên ở đây đó là đánh giặc không nhất thiết phải dùng tới vũ lực. Đôi khi, chiến thắng giặc ngoại xâm chỉ đơn giản là xuất phát từ cái tâm, bản chất lương thiện của lòng người. 

Như thế, chi tiết niêu cơm đã một phần thể hiện rõ ràng tư tưởng nhân đạo và đạo lý làm người của nhân dân ta. Điều đó góp phần tạo nên một hình tượng Thạch Sanh nghĩa hiệp, nhân từ trong mắt người đọc. Chúng cũng mang tới bài học cho đời sau về việc xử lý khôn khéo, mang lại hiệu quả cảm thụ cao.

Ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh

Ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh

Kết thúc truyện mang tới cho người đọc một ý nghĩa vô cùng to lớn. Cái thiện sẽ luôn thắng cái ác. Người tốt chắc chắn sẽ luôn gặp được may mắn và đền đáp thành quả một cách xứng đáng. 

Qua ý nghĩa của kết truyện cổ tích Thạch Sanh, tác giả cũng mong muốn hướng người đọc hướng thiện. Hãy sống theo lối sống có đạo đức, sống cho mình và cho cả những người xung quanh. 

Kết Cấu Của Truyện Cổ Tích Loài Vật

Kết cấu là một yếu tố thuộc bình diện hình thức của tác phẩm văn học. Một số kết cấu thường gặp như kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu đi thẳng vào giữa câu chuyện, kết cấu theo hai tuyến đối lập nhau, kết cấu theo tâm lí,…

Theo Hoàng Tiến Tựu, thì “Mỗi truyện cổ tích loài vật thường được kết cấu theo hai phần “dẫn truyện” và “thuật truyện” xen kẽ nhau. Phần dẫn truyện là lời trực tiếp của người kể chuyện. Còn phần thuật truyện thường là thuật lại lời đối thoại của các nhân vật trong truyện” [2, 54].

Trên cơ sở việc nhìn nhận của nhà nghiên cứu đi trước vừa nêu, người viết đã xem xét, rà soát trên tổng thể truyện cổ tích loài vật Việt Nam(2). Kết quả của việc xem xét ấy cho thấy: không phải toàn bộ truyện cổ tích loài vật có kết cấu gồm hai phần như đã nêu, mà chỉ một bộ phận.

Đọc hai truyện cổ tích loài vật sau:

(1) CÓC, CỌP VÀ KHỈ (Truyện người Kinh)

Hôm nọ, cọp đi ngang qua góc rừng, chỗ có hang cóc, thì dừng chân nhìn ngắm. Cóc thấy cọp đến dòm ngó, sợ gây hại đến mình, bèn lo việc ngăn cản, mới lên tiếng hỏi:

– Ai vậy? Đừng có qua đây nữa mà chết oan đó!

Cọp nghe tiếng nhưng chưa thấy mặt kẻ hỏi mình, bèn hỏi lại:

– Tao đây! Tao là cóc tía. Mày không biết danh tao sao?

– Chà! Mày hình vóc bằng cổ tay, lại dám mày tao mi tớ với tao nữa! Tài nghệ gì mày mà dám xấc láo thế?

– Tao thì đủ miếng. Còn mày bất quá chỉ có tài nhảy mà thôi.

Cọp mới thách cóc nhảy thi, coi ai nhảy xa cho biết. Cóc đồng ý. Cả hai ra tới con rạch lớn, vạch mốc để đứng ngang nhau mà nhảy. Cóc bảo:

– Tao chấp mày đứng trước, tao đứng sau cũng được!

Biết trước khi nhảy, cọp thường hất mạnh đuôi nên cóc ngậm lấy chót đuôi cọp. Khi cọp nhảy sang bên kia thì cóc đã văng ra đằng trước rồi. Nó lên tiếng:

– Tôi đây! Tôi đã nhảy xa hơn anh rồi!

– Anh thật có tài nhảy phi thường!

– Tôi đã nói rồi mà! Không chỉ tài mọn ấy, tôi còn bắt sống cọp để ăn hàng ngày. Hãy coi đây thì biết!

Cóc há miệng ra, trong đó, đầy những lông cọp. Cọp thấy vậy hoảng hồn, cong đuôi chạy mất. Nó chạy mãi vẫn chưa hết kinh hoàng.

Con khỉ trên cây thấy cọp chạy như vậy, bèn kêu giựt lại, hỏi:

– Có việc gì mà anh chạy dữ vậy?

– Thôi thôi, đừng hỏi để cho tôi chạy, kẻo nó theo kịp bây giờ!

– Anh phải nói ra: cái giống gì đã khiến anh sợ đến vậy, mới được chứ?

– Cái con chi…, quên tên rồi! Nó nhỏ nhỏ, da nhám…

– Ờ, biết rồi! Con cóc, phải không?

– Sao anh dở vậy? Bẻ cổ nó như chơi kia mà! Anh sợ mà chạy chỉ khiến nó dể ngươi thôi. Không tin, anh đem tôi tới, tôi vật nó như vật nhái cho mà coi.

– Anh đừng làm phách! Không chừng lại báo hại tôi nữa!

– Nếu sợ tôi gạt, thì để tôi buộc thân mình đấu cật với lưng anh. Anh đem tôi đến đó, tôi sẽ xé xác nó cho anh coi.

Cọp đồng ý để khỉ lấy dây buộc nó với mình, lại để cho khỉ cưỡi lên lưng, từ từ trở lại chỗ cũ. Con cóc vẫn còn ngồi đó, nó lên tiếng:

– Ai vậy? Anh khỉ đó phải không?

– Anh đem nó đến nộp đó à? Nợ mười hùm chưa đủ, một đã thấm chi!

Cọp nghe nói vậy tưởng bị khỉ gạt, đem mình nộp cho cóc thật, nó lại hoảng hồn, đâm đầu chạy. Cọp phóng ào ào, không kể cây cối, gai gốc, bờ bụi gì hết.

Khỉ bị cây va vào đầu, đập vào lưng, khiến bị vỡ sọ, gãy xương, chết nhăn răng. Khi mệt quá, cọp dừng lại, thấy khỉ như vậy, nó nghĩ khỉ cười mình, nên mắng rằng:

– Hết phách lối chưa? Đã báo hại người ta, lại còn cười nữa hả?

( Nguồn: Trương Vĩnh Kí (1974), Chuyện đời xưa, Nhà sách Hoa Tiên xuất bản, Sài Gòn, tr. 12-14)

(2) THỎ LỪA BÀ DUÔN RÍT (Truyện người Ê Đê)

Ngày xửa ngày xưa, có một bà tên là Duôn Rít, hôm nọ, làm cỏ lúa một mình trên rẫy, thì gặp thỏ. Con thỏ đi kiếm ăn, thấy bà Duôn Rít làm lụng vất vả, trời đã trưa, nắng gắt mà vẫn chưa nghỉ. Nó tiến lại, nói:

– Tội nghiệp bà quá! Trời nắng chang chang thế này mà bà vẫn cúi đầu làm miết. Bà đưa cuốc đây, cháu làm cỏ giùm cho!

Bà Duôn Rít tưởng thỏ thật lòng, nói:

Bà Duôn Rít về nhà nấu cơm, bắt gà to làm thịt để thỏ về ăn trưa. Còn thỏ, khi bà Duôn Rít đi khỏi, nó cắn phá hết cả đám lúa, không sót một gốc. Xong, thỏ chạy về nhà, nói với bà Duôn Rít:

– Bà ơi, cháu đã cuốc sạch hết cỏ lúa rồi!

Bà Duôn Rít vội dọn cơm canh ra cho thỏ ăn, bắc ché rượu cần cho thỏ uống. Có điều, thấy thỏ làm cỏ nhanh quá, lòng bà đầy nghi ngại, vội chạy lên rẫy xem, thì ôi thôi, lúa đã bị cắn phá vung vãi. Bà khóc lóc kêu la, rồi chạy thật nhanh về nhà. Thỏ ở nhà, vừa ăn cơm với thịt gà, vừa thúc giục Y Rít, đứa cháu của bà Duôn Rít, lấy cần rượu mà uống. Khi bà chạy đến nhà, Y Rít mới nghe rõ tiếng bà la ó:

– Y Rít, mau đánh chết thỏ đi! Nó cắn phá lúa nhà ta hết rồi.

Y Rít vội vàng lấy gậy đánh thỏ. Thỏ sợ bỏ chạy, rồi chui vào ché. Y Rít đập bể ché. Thỏ vào bếp. Y Rít đánh nát bếp. Thỏ chui vào trốn ở đâu, Y Rít đều đánh chỗ đó tan tành. Thỏ chui vào cái cối đá giã gạo đã thủng lỗ ở dưới đáy. Y Rít cũng chui theo. Ngờ đâu, thỏ chui vào thì lọt, còn Y Rít chui vào thì bị kẹt cứng trong đó, không sao ra được.

Bà Duôn Rít chạy tới, thấy cái cối rục rịch, tưởng thỏ trong đó, nên bà đánh mạnh vào. Y Rít kêu đau, van bà tha. Nhưng bà Duôn Rít lại tưởng thỏ lừa mình, nên cứ phang thật mạnh, cho hết đụng đậy mới thôi.

Khi lôi trong cối ra, bà mới biết đã đánh nhầm cháu mình. Chôn cất cháu xong, ngày nào bà Duôn Rít cũng rầu rĩ khóc lóc, than vãn:

– Cháu thì chết, lúa thì thỏ cắn phá! Khổ quá! Giàng ơi là Giàng!

Lâu lắm, thỏ lại lần mò đến sau lưng bà, hỏi:

– Sao bà cứ than khóc miết vậy, hở bà?

Bà Duôn Rít giật mình, quài tay ra sau túm được hai cái tai dài của thỏ. Thỏ giãy giụa kịch liệt vẫn không thoát khỏi hai bàn tay cứng như gọng kìm sắt của bà. Bà Duôn Rít nghiến răng:

– Lần này tao sẽ đốt mày, ăn thịt mày!

– Nè bà ơi! Bà ăn thịt tôi đâu có lợi gì? Tôi nghe nói Mtao muốn mua thỏ về quay làm món thịt ngon đãi khách. Bà đem tôi bán cho Mtao được nhiều tiền. Lấy tiền đó bà mua lúa ăn vài năm, chẳng có lợi hơn sao?

Bà Duôn Rít nghĩ thỏ đã nói phải, cũng nên đem thỏ đi bán cho Mtao. Thỏ biết, vào giờ này Mtao đang nghỉ ăn cơm, mới nói:

– Bà nên vào cửa chính, sẽ gặp Mtao ở đó. Còn tôi sẽ vào cửa phụ và ở luôn trong chuồng nuôi súc vật của ông ta.

Bà Duôn Rít đồng ý. Thỏ vào cửa sau, gặp Mtao và vợ đang ăn cơm. Thỏ nói:

– Thưa ông Mtao, hôm nay, tôi bán bà Duôn Rít, để làm nô lệ cho ông.

– Thế ông bán bao nhiêu tiền?

– Thưa Mtao, tôi không lấy tiền, chỉ cần một cái chiêng đồng là đủ.

Mtao thấy rẻ, liền đưa cái chiêng đồng cho thỏ, rồi nói:

– Bà ấy đang vào lối cửa chính kia kìa! Bà ấy tới rồi đấy.

Bà Duôn Rít xuống tới chỗ Mtao, ngồi dưới đất, định mở miệng nói, nhưng Mtao đã nói trước:

– Ông thỏ đã bán bà cho tôi rồi. Bà phải ở đây làm nô lệ cho gia đình tôi.

Thế là cuối cùng bà Duôn Rít vẫn cứ mắc lừa thỏ.

( Nguồn: Nguyễn Thị Thu Trang (Chủ biên) (2011), Văn học dân gian các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội, tr. 192-195)

Đọc tiếp hai truyện cổ tích loài vật khác:

(3) NGỰA VÀ HỔ (Truyện người Nùng)

Ngày xưa, hổ không có móng vuốt sắc, ngựa cũng không có bộ móng guốc để phóng nhanh như bây giờ. Lúc ấy, ngựa được loài người thuần hoá làm con vật để cưỡi và chuyên chở hàng hoá, nhưng chân của nó có móng sắc nên đi hơi chậm.

Ngựa được con người nuôi dưỡng, chăm sóc khá cẩn thận nên không đói bữa nào, nhưng thỉnh thoảng nó lại bị người chê đi không được nhanh. Nó lo lắng, có một ngày nào đó, người tìm được con vật khác đi nhanh hơn, thì nó không được nuôi nữa. Hổ vốn là một loài vật hung dữ, chuyên ăn thịt các con vật khác. Chân nó chạy nhanh nhưng không có vuốt sắc, nên nhiều khi đuổi được con vật nào đó, chưa kịp ngoạm thịt, thì con vật ấy đã tuột ra khỏi chân rồi. Chính vì vậy nên nhiều khi hổ bị đói.

Vốn là một con vật thông minh, ngựa nhận ra rằng, hổ có đôi móng chạy nhanh mà lại không phát huy tác dụng, còn nó thì có đôi móng sắc để vồ được các con vật, trong lúc chỉ ăn cỏ, thóc. Ngựa tìm gặp hổ, gạ gẫm rằng:

– Anh hãy đổi móng cho tôi! Anh kiếm ăn cần có đôi móng vuốt nhọn sắc của tôi để vồ và bắt giữ con mồi, còn tôi đã được người nuôi rồi, nên chỉ cần một đôi móng bình thường như anh thôi.

Hổ thấy ngựa nói có lí, đồng ý. Thế là ngựa và hổ đổi móng cho nhau.

Từ đấy trở đi, ngựa có đôi móng chân chắc, khoẻ, chạy nhanh như gió, và được người nuôi yêu thương, gần gũi; hổ thì ngoài hàm răng chắc, khoẻ, đã có thêm đôi vuốt sắc, nhọn để vồ và bắt giữ con mồi. Người ta thường kể rằng, mỗi khi vào rừng, ngửi thấy mùi hổ, ngựa lại sợ hổ đòi lại móng, nên nó cứ quỳ chân xuống đất để giấu móng đi; bấy giờ, nó không bước được nữa. Người nào biết có hổ tới gần, muốn ngựa chạy đưa mình đến chỗ khác để không bị hổ vồ, phải cho ngựa ngửi mùi tỏi để át mùi hổ đi, thì ngựa mới đứng lên chạy tiếp.

( Nguồn: Ngô Văn Trụ, Bùi Văn Thành (Đồng chủ biên) (2011), Di sản văn học dân gian Bắc Giang, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, tr. 381-382)

(4) GỐC TÍCH CÁI NỐT DƯỚI CỔ TRÂU (Truyện người Kinh)

Ngày xưa, con trâu cũng nói một thứ tiếng với người. Nhờ thế, người dùng lời nói để sai khiến con vật theo ý muốn của mình, thật là tiện. Cũng nhờ thế mà những người chăn trâu không dám đánh đập tàn tệ hoặc bỏ đói trâu, vì sợ trâu mách với chủ.

Có một người nông dân nuôi một con trâu và mướn một cậu bé để chăn.

Người và thú lúc đầu rất tương đắc, nhưng về sau lại sinh bất hoà. Cậu bé tính ham chơi, nhiều khi quên mất phận sự của mình, làm cho trâu không có thức gì ăn vào bụng. Có bữa mải mê đánh đáo nhưng lại sợ trâu ăn lúa, cậu ta cột chặt trâu một nơi không cho ăn. Những hôm đó, để che mắt chủ, cậu dùng mẹo: lấy mo cau áp vào hông trâu, rồi trét đất sét bên ngoài. Cứ như thế, cậu dẫn trâu về chuồng.

Chủ nhà nhìn thấy bụng trâu no căng tròn, tỏ ý hài lòng, không căn vặn gì cả.

Nhờ mẹo ấy, cậu ta qua mặt chủ nhiều lần, nhưng cũng nhiều lần làm trâu tức giận.

Một hôm, cậu quá mê chơi, bỏ trâu nhịn đói từ sáng đến chiều. Trâu gọi mãi nhưng cậu ta nào có nghe thấy gì đâu. Buổi chiều hôm ấy, trâu định mách với chủ, nhưng cậu ta đã khôn ngoan dùng lời lấp liếm, không cho trâu nói.

Sáng hôm sau, chủ dắt trâu ra đồng cày ruộng. Trâu tỏ cho thấy nó bước đi không nổi. Chủ gắt:

– Nào có chịu đi mau lên không? Đồ làm biếng!

– Tôi không làm biếng, mà tại đói quá!

– Mày nói sao? Ngày nào thằng nhỏ cũng cho mày ăn no căng bụng lên như cái trống chầu mà!

Bấy giờ trâu mới đủng đỉnh nói:

Sự giả dối của cậu bé thế là bị bại lộ. Ngay buổi trưa hôm đó, người chủ vừa gỡ hai miếng mo cau ở hai bên hông trâu, vừa đánh cậu bé một trận nên thân. Riêng trâu thì rất hả hê, vì từ hôm đó ngày nào cũng được ăn no, lại được tắm rửa sạch sẽ.

Mấy ngày sau, những chỗ bị đòn hãy còn sưng húp, cậu bé ngồi trên bờ giọt ngắn giọt dài, trong khi trâu ung dung ăn cỏ. Bỗng có một ông lão hiện ra ở sau lưng, hỏi cậu ta vì cớ gì mà khóc. Cậu chỉ vào trâu mà nói:

– Tại nó cả, vì nó mách với chủ…

Rồi cậu kể hết cho ông lão nghe. Nghe xong, ông lão dỗ dành cậu bé, và nói:

– Ta rất thương con gặp phải chuyện không may. Bây giờ con muốn gì ta sẽ làm con vui lòng.

– Vì nó biết nói, làm con phải bị đòn. Lúc này con chỉ muốn làm thế nào cho nó không thể nói được nữa.

– Khó gì việc đó. Ta sẽ có phép làm cho con vừa lòng.

Ông bèn rút trong người ra một cây nhang, đốt lên, rồi bất thình lình dí vào dưới cổ con vật. Trâu cố giãy giụa nhưng không kịp. Trâu kêu la khản cổ.

Sau đó, tiếng nói của trâu dần dần mất đi. Cuối cùng, lúc nào muốn nói, trâu chỉ phát ra được hai tiếng “nghé ngọ” mà thôi. Chỗ bị thương lâu ngày thành sẹo, chai cứng như nốt ruồi. Cả dòng họ nhà trâu từ đó sinh ra đều không biết nói, và đều có một cái nốt ở dưới cổ.

– Truyện (3): “Từ đấy trở đi, ngựa có đôi móng chân chắc, khoẻ, chạy nhanh như gió, và được người nuôi yêu thương, gần gũi; hổ thì ngoài hàm răng chắc, khoẻ, đã có thêm đôi vuốt sắc, nhọn để vồ và bắt giữ con mồi. Người ta thường kể rằng, mỗi khi vào rừng, ngửi thấy mùi hổ, ngựa lại sợ hổ đòi lại móng, nên nó cứ quỳ chân xuống đất để giấu móng đi; bấy giờ, nó không bước được nữa. Người nào biết có hổ tới gần, muốn ngựa chạy đưa mình đến chỗ khác để không bị hổ vồ, phải cho ngựa ngửi mùi tỏi để át mùi hổ đi, thì ngựa mới đứng lên chạy tiếp”.

– Truyện (4): “Sau đó, tiếng nói của trâu dần dần mất đi. Cuối cùng, lúc nào muốn nói, trâu chỉ phát ra được hai tiếng “nghé ngọ” mà thôi. Chỗ bị thương lâu ngày thành sẹo, chai cứng như nốt ruồi. Cả dòng họ nhà trâu từ đó sinh ra đều không biết nói, và đều có một cái nốt ở dưới cổ”.

Theo như đã trình bày, thì truyện cổ tích loài vật có hai kiểu kết cấu: kết cấu gồm hai phần, phần “dẫn truyện” và phần “thuật truyện”; kết cấu gồm ba phần, phần “dẫn truyện”, phần “thuật truyện”, và phần “kết truyện”.

Theo đó, thì việc ghi nhận hai kiểu kết cấu của truyện cổ tích loài vật như đã trình bày, chẳng những cho thấy một đặc điểm quan trọng về hình thức nghệ thuật của truyện cổ tích loài vật, mà còn, ở lĩnh vực nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề, là một sự bổ sung cần thiết (của người sau đối với người đi trước).

(1) Riêng truyện cổ tích về người, có hai bộ phận hay tiểu thể loại (gọi tắt là tiểu loại) truyện cổ tích, là truyện cổ tích thần kì và truyện cổ tích thế tục. Để tiện trong việc gọi tên, các nhà nghiên cứu cũng xem bộ phận truyện cổ tích loài vật là một tiểu loại, cùng với hai tiểu loại vừa nêu, của truyện cổ tích